Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Điểm giống nhau,khác nhau giữa truyện cổ hải phòng và việt nam là

Điểm giống nhau,khác nhau giữa truyện cổ hải phòng và việt nam là
1 trả lời
Hỏi chi tiết
34
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Truyện cổ Hải Phòng và Việt Nam có những điểm giống nhau và khác nhau như sau:

Điểm giống nhau:
1. Cả hai đều là truyện cổ, được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
2. Cả hai đều mang tính chất dân gian, phản ánh cuộc sống và tâm lý của người dân.
3. Cả hai đều có nội dung xoay quanh cuộc sống, công việc, tình yêu, gia đình và những giá trị truyền thống của dân tộc.

Điểm khác nhau:
1. Truyện cổ Hải Phòng là những câu chuyện dân gian được truyền miệng trong vùng Hải Phòng, miêu tả cuộc sống và tâm lý của người dân nơi đây. Trong khi đó, truyện cổ Việt Nam là những câu chuyện dân gian truyền miệng trên toàn quốc, phản ánh cuộc sống và tâm lý của người dân Việt Nam.
2. Truyện cổ Hải Phòng thường có những đặc điểm riêng như ngôn ngữ đặc trưng, những câu chuyện về đời sống ngư dân, nghề làm thủ công truyền thống. Trong khi đó, truyện cổ Việt Nam có đa dạng về nội dung và ngôn ngữ, phản ánh đa dạng các khía cạnh của cuộc sống dân gian.
3. Truyện cổ Hải Phòng thường có những nhân vật và sự kiện đặc trưng của vùng đất này, trong khi truyện cổ Việt Nam có những nhân vật và sự kiện phổ biến trên toàn quốc.
4. Truyện cổ Hải Phòng thường được truyền miệng trong cộng đồng ngư dân và nghề thủ công truyền thống, trong khi truyện cổ Việt Nam được truyền miệng trong cộng đồng dân gian trên toàn quốc.
1
0
vô gia cư
20/12/2023 20:23:56
+5đ tặng

từ truyện trong các cụm từ truyện dân gian, truyện cổ dân gian, truyện cổ tích với từ truyện trong những danh từ được dùng để chỉ một số thể loại của văn chương viết như: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài v.v.. có chung nguồn gốc. Từ điển Hán - Việt của Thiều Chửu cho biết: trong tiếng Hán, chữ truyền có ba cách đọc và ý nghĩa khác nhau như sau: 1) đọc truyền có nghĩa đem của người này mà trao cho kẻ kia như truyền vị - truyền ngôi, truyền đạo. Truyền còn có nghĩa sai người bảo như truyền kiến - truyền cho vào yết kiến; 2) đọc truyện vừa có nghĩa dạy bảo như Xuân thu Tả thị truyện - họ Tả giải nghĩa kinh Xuân thu để dạy bảo người, vừa có nghĩa là truyện kí như Liệt nữ truyện - truyện các gái hiền; 3) đọc truyến có nghĩa nhà trạm, nhà để đưa kẻ đi, đón kẻ lại cũng gọi là truyến [4, tr.30]. Từ truyện trong tiếng Pháp là conte, tiếng Anh là tale, story.

 

Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, truyện là danh từ có hai nét nghĩa: 1) tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến của sự kiện thông qua lời kể chuyện cuả nhà văn; 2) (thường dùng đi đôi với kinh), sách giải thích kinh nghĩa do các nhà triết học của Trung Quốc thời cổ viết [8, tr.1018]. Từ điển tiếng Việt của Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm cũng cho rằng từ truyện có 2 nét nghĩa và giải thích: 1) việc có lớp lang, sự tích hoặc tưởng tượng được kể lại: truyện cổ tích; 2) sách về Nho giáo: Tứ truyện [9, tr.1414]. Từ điển Việt - Hán của Lâm Hoà Chiếm, Lý Thị Xuân Các và Xuân Huy viết truyện là tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến của sự kiện, sự việc [3, tr.973].

 

Trong Từ điển văn học, Nguyễn Xuân Nam viết: Truyện thuộc loại tự sự - có hai phần chủ yếu là cốt truyện và nhân vật. Thủ pháp nghệ thuật chính là kể. Truyện thừa nhận vai trò rộng rãi của hư cấu và tưởng tượng. Tuỳ theo nội dung phản ánh, dung lượng, chủ thể sáng tác cụ thể mà truyện được chia thành nhiều loại: truyện dân gian, truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài (cũng gọi là tiểu thuyết), truyện nôm, truyện nôm khuyết danh [7, tr.450].

 

Như vậy, cách giải thích ý nghĩa từ truyện của các cuốn từ điển là tương đối thống nhất. Nếu có điểm khác nhau thì hoàn toàn không phải là nhằm loại trừ nhau mà đó là sự bổ sung lẫn nhau để giải thích một cách đầy đủ ý nghĩa của từ truyện. Cần thấy rằng, khi truyện trở thành một thuật ngữ văn học thì nó được sử dụng với ý nghĩa khá phong phú, đa dạng và phức tạp. Riêng lĩnh vực văn chương viết, theo Lại Nguyên Ân, truyện là tác phẩm tự sự. Hàm nghĩa của thuật ngữ này khác nhau trong văn học trung đại và hiện đại.

 

Ở văn học trung đại Việt Nam, truyện là một thuật ngữ mà văn học mượn từ sử học (truyện là thể loại trước thuật của sử gia, chép tiểu sử, hành trạng, công tích của các nhân vật lịch sử). Tác phẩm thể truyện có thể được viết bằng thơ (ví dụ truyện thơ nôm) hoặc văn xuôi (ví dụ loại truyện truyền kì, truyện chương hồi viết bằng chữ Hán).

 

Ở văn học hiện đại, truyện là khái niệm không thật xác định. Một mặt nó vẫn được dùng để chỉ mọi loại tác phẩm tự sự có cốt truyện nói chung (bao gồm cả truyện kí, tiểu thuyết), mặt khác lại có lối dùng nó như thuật ngữ chỉ dung lượng tác phẩm tự sự (truyện dàitruyện vừatruyện ngắn).

 

Khái niệm truyện thường lẫn lộn phức tạp với khái niệm tiểu thuyết. Trong thực chất thể loại, có tác phẩm truyện là tiểu thuyết và ngược lại. Tuy vậy, ở văn học hiện đại, các nguyên lí của tiểu thuyết chi phối hầu hết các thể loại nên sự phân biệt bản chất thể loại ở tác phẩm cụ thể là không dễ. Có thể nói phạm vi truyện rộng hơn phạm vi tiểu thuyết. Ở truyện còn giữ lại nhiều hình thức thể loại khác nhau, đặc biệt là giữ lại những nét thuộc sử thi tiền tiểu thuyết. Ví dụ loại truyện mang tính tiểu sử về nhân vật có thực, dù được tiểu thuyết hoá ở mức nhất định; vì nó thiên hẳn về việc kể lại một cuộc đời theo các mốc niên biểu. Loại truyện kể lại các sự kiện (chiến đấu, sản xuất...) cũng vậy. Sự phát triển và thể hiện hàm nghĩa nghệ thuật của tác phẩm không thực hiện ở vận động cốt truyện. ở truyện, bản thân việc mở rộng cái thế giới mà nhân vật đi vào, theo dòng chảy của một cuộc đời, hoặc sự thay đổi các ấn tượng về những cảnh và người mà nhân vật xúc tiếp  đã là mục đích của trần thuật, của sự thể hiện nghệ thuật. ở truyện, chất giọng của tác giả (hoặc nhân vật kể chuyện) có vai trò lớn [1, tr.349 -350].

 

Ở nước ta, từ xưa, trong dân gian chưa có các từ và cụm từ: truyệntruyện cổ dân gian  truyện cổ tích. Người bình dân không quen nói truyện mà thường nói chuyện (chuyện Tấm Cám, chuyện Thạch Sanh, Lý Thông, chuyện Nàng út v.v.); không quen nói truyện cổ tích mà thường nói chuyện đời xưa; không nói truyện cổ dân gian mà chỉ nói chuyện đời xưa. Khi bàn về sự xuất hiện hai thuật ngữ ca dao  dân ca, Nguyễn Xuân Kính cho rằng: Hiện nay, đối với giới nghiên cứu, ca dao và dân ca là những thuật ngữ quen thuộc. Trước kia, trong dân gian, những từ đó chưa có. Để chỉ các hoạt động văn nghệ dân gian, người bình dân sử dụng những từ khác. Đó là các động từ ca, hò, ví, hát, lí, ngâm, kể. Căn cứ vào những tài liệu hiện có, chúng ta biết rằng từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XX, cùng với sự xuất hiện các công trình sưu tầm, biên soạn ca dao của nhà Nho, hai tên gọi phong dao, ca dao cũng chính thức ra đời. So với thuật ngữ ca dao, thuật ngữ dân ca xuất hiện muộn hơn. Phải đến những năm 50 của thế kỉ XX, thuật ngữ này mới chính thức được sử dụng với sự xuất hiện của cuốn sách Tục ngữ và dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan) [6, tr.72 - 78]. Quá trình xuất hiện các thuật ngữ truyện, truyện cổ dân gian, truyện cổ tích giống với quá trình xuất hiện hai thuật ngữ ca dao  dân ca.

 

So với ca dao và dân ca, từ truyện xuất hiện trong sách vở của nhà Nho từ khá sớm. Theo tư liệu văn học thời phong kiến còn được lưu giữ tới ngày nay, Báo cực truyện (chưa rõ tác giả) có những truyền thuyết liên quan đến thần Tô Lịch, Trương Hống, Trương Hát, Lý Phục Man,... ra đời khoảng từ thế kỉ X đến thế kỉ XIII, là cuốn sách sớm nhất có sử dụng từ truyện. Trong nhiều cuốn sách được tầng lớp nhà Nho biên soạn vào những thế kỉ sau đó như Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (đầu thế kỉ XIV), Lĩnh Nam chích quái của Vũ Quỳnh, Kiều Phú (cuối thế kỉ XV), Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên (nửa cuối thế kỉ XV), Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (thế kỉ XVI), Thiên Nam ngữ lục (vô danh), Truyền kì tân phả của Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn (1726 - 1783), Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề (thế kỉ XVIII), Lan trì kiến văn lục của Vũ Trinh (? - 1828), Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, Thoái thực kí văn của Trương Quốc Dụng (1797 - 1864), Trấn Tây kỉ lược của Doãn Uẩn (nửa đầu thế kỉ XIX), Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (nửa đầu thế kỉ XIX) v.v., chữ truyện dần dần được sử dụng với ý nghĩa của một thuật ngữ văn học.

 

Một trong những đặc điểm lớn nhất trong trước tác của nhà Nho thời phong kiến là hiện tượng văn sử bất phân. Trong sách vở của họ, tính chất sử học và tính chất văn học nhiều khi không được phân biệt một cách rạch ròi. Cho dù vậy, khi phân loại trước tác của nhà Nho, một tác phẩm cụ thể bao giờ cũng thuộc về một loại nhất định. Giả sử, ở một khía cạnh nào đó, các cuốn sách: Báo cực truyện, Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái có tính chất lịch sử, nhưng không vì thế mà xếp chúng vào phạm vi công trình lịch sử. Các cuốn sách ấy thuộc và chỉ thuộc về lĩnh vực sách văn học. Tương tự như vậy, cho dù Đại Việt sử kí toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục tính chất văn học biểu hiện khá rõ, nhưng chưa thấy ai gọi đây là hai tác phẩm văn học hay hai công trình nghiên cứu văn học bao giờ! Từ trước đến nay, người ta chỉ xếp chúng vào lĩnh vực công trình lịch sử. Từ đó, ta có thể nói rằng, từ truyện với tính chất là một thuật ngữ văn học đã được sử dụng trong sách vở của nhà Nho khoảng từ thế kỉ X đến thế kỉ XIII mà Báo cực truyện - một cuốn sách thuộc lĩnh vực văn học là minh chứng cụ thể. Và từ truyện trong sách vở của nhà Nho tương đương với chữ chuyện trong dân gian.

 

3. Tiếp sau quá trình từ truyện trở thành một thuật ngữ văn học là sự ra đời thuật ngữ truyện cổ dân gian. Quá trình ra đời của thuật ngữ này gồm hai bước: bước thứ nhất là sự xuất hiện các danh từ truyện cổ tích và truyện cổ. Theo Chu Xuân Diên, một cuốn sách chữ Nôm in tại Hà Nội năm 1871 có tên là Ngọc Hoa cổ tích truyện. Như vậy, danh từ truyện cổ tích được dùng ở Việt Nam có lẽ muộn nhất cũng là từ thế kỉ XIX [5, tr.231]. Ngoài ra, các danh từ truyện cổ, truyện cổ tích còn được nhận diện tương đối rõ nét khi các công trình sưu tầm chuyện đời xưa, chủ yếu là của tầng lớp trí thức Tây học và các học giả phương Tây xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX như Chuyện giải buồn (1885) của Huỳnh Tịnh Của, Chuyện đời xưa (1886) của Trương Vĩnh Ký; Contes et legendes annamites (1886) của Landes, Bàn về truyện cổ An Nam ta (1921) của Đỗ Hào Đình; Truyện cổ tích, I (1928) của Lưu Văn Thuận; Đông Tây ngụ ngôn (1927), Truyện cổ nước Nam (1932 -1934) của Nguyễn Văn Ngọc; Chuyện đời xưa (1930) của Phạm Văn Thỉnh v.v; bước thứ hai, trên cơ sở mở rộng ý nghĩa của khái niệm truyện cổ tích hay làm rõ nghĩa hơn nữa khái niệm truyện cổ, thuật ngữ truyện cổ dân gian ra đời. Bước thứ hai của quá trình ra đời thuật ngữ truyện cổ dân gian nếu được hoàn thiện, có sớm, thì cũng phải từ những năm 50 của thế kỉ XX trở về sau, khi khái niệm văn học dân gian xuất hiện. Và khái niệm truyện cổ dân gian trong sách vở của giới nghiên cứu văn học dân gian tương đương với cụm từ chuyện đời xưa trong dân gian, tương đương với các danh từ conte populaire (tiếng Pháp), folktale (tiếng Anh).

 

Trong các công trình sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian ở nước ta, nhiều khi các khái niệm truyện cổ, truyện dân gian, truyện cổ dân gian và truyện cổ tích được hiểu và sử dụng hoàn toàn như nhau. Thực ra, bốn khái niệm này không hoàn toàn giống nhau. 

 

Theo nghĩa thông thường, truyện cổ là nói tắt của cách nói đầy đủ truyện cổ dân gian. Truyện cổ dân gian là một khái niệm có ý nghĩa khái quát, nó bao gồm hết thảy các loại truyện do quần chúng vô danh sáng tác và lưu truyền qua các thời đại [2, tr.39]. Truyện dân gian  truyện cổ dân gian giống nhau nhưng không đồng nhất, giữa chúng vẫn có nét khác nhau và chính nét khác nhau ấy đã xác định ý nghĩa rộng, hẹp của hai khái niệm. Nếu nói một cách đầy đủ thì khái niệm truyện dân gian là truyện kể dân gian, nó bao quát tất cả truyện dân gian của đời xưa và mới sáng tác ở đời nay, trong khi đó, khái niệm truyện cổ dân gian chỉ bao quát ở giới hạn những truyện dân gian đã được sáng tác từ đời xưa.

 

Trong giới nghiên cứu văn học dân gian Việt Nam đã từng có ý kiến đồng nhất hai khái niệm truyện cổ tích  truyện cổ dân gian. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên và Từ điển tiếng Việt do Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm biên soạn đều giải thích truyện cổ tích  truyện cổ dân gian phản ánh cuộc đấu tranh trong xã hội, thể hiện tình cảm, đạo đức, mơ ước của nhân dân, về hình thức thường mang nhiều yếu tố thần kì, tượng trưng và ước lệ [8, tr.1080], [9, tr. 1414]. Nguyên nhân của sự đồng nhất này, nếu xét một cách sâu xa là do khái niệm truyện cổ dân gian chưa được coi là một thuật ngữ khoa học của khoa nghiên cứu văn học dân gian. Cái lí của quan niệm đồng nhất hai khái niệm, chủ yếu xuất phát từ ý nghĩa của từ cổ tích trong khái niệm truyện cổ tích. Trong Văn hóa dân gian, mấy vấn đề phương pháp luận và nghiên cứu thể loại, Chu Xuân Diên viết: Cổ tích là một từ Hán Việt. Cổ có nghĩa là xưa, cũ. Ta có khái niệm truyện cổ (hoặc truyện cổ dân gian), truyện đời xưa dùng để chỉ nhiều loại truyện dân gian khác nhau trong đó có truyện cổ tích. Tương đương với khái niệm này trong tiếng Hán là cố sự (sự tích đời xưa) hoặc dân gian cố sự. Còn tích có nghĩa là gì? Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn giới thiệu 29 nghĩa của từ tích trong đó có hai nghĩa liên quan đến khái niệm truyện cổ tích: 1) tích: dấu chân, dấu vết; 2) tích: dấu vết cũ, dấu chân. Những nghĩa này còn giữ được gần như nguyên vẹn những nghĩa gốc tương đương của từ tích trong tiếng Hán: vết chân, dấu vết; những gì người xưa còn để lại (theo Khang Hi từ điển). Những sắc thái nghĩa trên của từ tích thấy có trong các nghĩa của từ sự tích (Hán Việt): 1) Đầu đuôi gốc tích của một việc; 2) Sự việc có thật; 3) Dấu tích của việc (theo Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn). Nghĩa của từ tích trong các thành ngữ truyện xưa tích cũcó tích mới dịch nên tuồng, rõ ràng có liên quan với khái niệm sự tích. Như vậy, trong các nghĩa của từ tích (Hán Việt) có bao hàm hai yếu tố: 1) sự việc, câu chuyện (... sự tích); 2) dấu vết (... di tích). Hai yếu tố này có lẽ đã khiến cho từ cổ tích (Hán Việt) mang hai nghĩa nói về hai hiện tượng khác nhau: 1) di tích xưa; 2) truyện đời xưa (theo Hán Việt từ điển). Nghĩa thứ nhất tương đương với từ cổ tích trong tiếng Hán: Cổ tích = cổ nhân chi trần tích = dấu vết người xưa (theo Từ điển Từ nguyên). Còn nghĩa thứ hai thì chỉ có trong từ cổ tích Hán Việt. Khái niệm truyện cổ tích của ta được tiếng Hán biểu thị bằng từ cố sự (truyện cổ) hoặc dân gian cố sự (truyện cổ dân gian). Từ đó tác giả có nhận xét: Ngoài các khái niệm truyện cổtruyện đời xưa dùng để chỉ nhiều loại truyện dân gian khác nhau trong đó có cả truyện cổ tích (do đó cũng thường dùng để chỉ riêng truyện cổ tích), ta còn có khái niệm truyện cổ tích có thể dùng để đặc biệt chỉ riêng loại truyện này [5, tr.229 - 230].

 

. Như vậy, chỗ khác nhau giữa hai khái niệm truyện cổ tích và truyện cổ dân gian đã rõ. Truyện cổ dân gian là khái niệm được dùng để chỉ một bộ phận của văn học dân gian, bộ phận này gồm nhiều thể loại, trong đó có thể loại truyện cổ tích. Truyện cổ tích là khái niệm được dùng với hai ý nghĩa chủ yếu: 1) (cũng) để chỉ một bộ phận của văn học dân gian, trong trường hợp này, khái niệm truyện cổ tích tương đương với khái niệm truyện cổ dân gian; 2) để chỉ truyện cổ tích - một thể loại của bộ phận truyện cổ dân gian trong văn học dân gian. Để tránh lẫn lộn như đã từng xảy ra, ta chỉ nên sử dụng khái niệm truyện cổ tích trong trường hợp để chỉ riêng thể loại truyện cổ tích mà thôi.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Tổng hợp Lớp 6 mới nhất
Trắc nghiệm Tổng hợp Lớp 6 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư