Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài đây thôn vĩ dạ

2 trả lời
Hỏi chi tiết
32
2
0
quangcuongg
20/03 09:48:16
+5đ tặng

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài cổ. Theo những tư liệu về Hàn Mặc Tử, khi còn làm việc ở Nha điền bạ Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái của chủ điền trang Quy Nhơn, người làng Vĩ, Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mặc Tử dồn hết vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã tính chuyện lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
ĩEm lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử bị bệnh phong năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc, trong đó có ảnh phong cảnh xứ Huế, có sông, có thuyền, có bến có trăng và nhiều cảnh đẹp khác. hàng cau cao kèm theo lời Hoàng Cúc an ủi nhà thơ. Tấm bưu ảnh đã đánh thức cảm xúc của nhà thơ nên mới có bài thơ tuyệt vời này.

Khổ thơ đầu tiên mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ như một lời trách móc nhẹ nhàng pha chút tiếc nuối nhưng đằng sau đó là lời mời gọi tha thiết du khách hãy đến thưởng ngoạn cảnh đẹp “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để “ngắm mặt trời mới mọc”. Nhà thơ nhắc đến cây cau trước tiên bởi cây cau là một loài cây thanh cao, dáng đẹp, thân thẳng, tán lá xanh mướt, gợi lên lòng trung nghĩa, ngay thẳng. Hình ảnh cây cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, đó là “Nắng lên, nắng mới lên”. Từ “nắng” gợi cho ta hình ảnh ánh nắng ban mai, biểu tượng của sức sống và niềm vui lan tỏa khắp trái đất. Trong ánh ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lấp lánh như vươn mình lên để hấp thụ ánh vàng rực rỡ.

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba như một tiếng kêu thích thú thể hiện sự ngạc nhiên và khâm phục. Cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái, được bàn tay khéo léo chăm sóc, được tắm mưa gió thường xuyên nên bóng mượt, lấp lánh như viên ngọc bích dưới nắng mai. Hình ảnh so sánh của tác giả trong đoạn thơ vừa chính xác vừa gợi cảm. Có thể nói, cách tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài ba.

Chỉ bằng vài nét chấm phá, Hàn Mặc Tử đã phác họa được khung cảnh sân vườn của một làng quê xứ Huế vừa thân thuộc, vừa bình dị, vừa thơ mộng độc đáo. Ngắm nhìn khu vườn xứ Huế trong “nắng mới” thật thanh thản. Nhưng khung cảnh Vĩ Dạ bồng bềnh sống dậy, khi xuất hiện bóng người: “Lá tre che mặt phông”. Mặt chữ điền thường gợi vẻ đẹp nhân hậu. trang trọng, quý phái, trong khi lá trúc gợi dáng người mảnh khảnh, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa hiện thực: thấp thoáng sau rặng tre có khuôn mặt rất hiền của ai đó hình như đang dõi theo khách từ xa, còn mang ý nghĩa tượng trưng, cách điệu.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh đẹp nên thơ, người cao thượng, nhân hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp kín đáo, nhẹ nhàng. Nhờ vậy mà câu thơ đã làm nổi lên cái hồn của miệt vườn xứ Huế mà khổ thơ tập trung thể hiện.

Tóm lại, bằng những chi tiết hết sức thân thuộc, bình dị, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một bức tranh thôn quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, sự hài hòa giữa cảnh và người. Bài thơ khơi dậy trong tâm hồn người đọc bao tình cảm đối với quê hương, làng quê Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của xứ Huế: sông Hương và vẻ đẹp trầm mặc, trầm mặc của Vĩ Dạ nói riêng và xứ Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về Huế, về núi Ngự, sông Hương, Hàn Mặc Tử cũng cảm nhận được tâm hồn, nhịp điệu rất Huế. Khung cảnh xứ Huế dưới ngòi bút Hàn Mặc Tử có sông, có bờ thiếp, có gió, có mây, có thuyền ai đậu dưới trăng bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh yên bình, thơ mộng.

“Gió theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hai dòng tả cảnh nhưng thấm đượm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly, buồn man mác. Phải chăng tình yêu đơn phương, không phút gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia tay, nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà buồn chia ly? Vì tôi đang trong tâm trạng buồn nên nhìn đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng nay lại đứt đoạn, như không gặp gỡ. Các từ “gió”, “mây” đã thể hiện điều đó. Và cả dòng nước vô tri vô giác cũng trở nên buồn bã cùng với những bông ngô đồng khẽ “rung rinh”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh mà dường như còn muốn tả nhịp điệu của cảnh. Đó là nhịp điệu uyển chuyển, bình dị, một nét trầm tư rất đặc trưng mà không nơi nào khác ở Huế có được. Hai câu thơ với nhịp điệu chậm rãi cũng đã thể hiện thành công cảm xúc trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử huyền ảo, lấp đầy vũ trụ, tạo nên một bầu không khí nửa thực nửa hư:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay”

Chỉ trong mơ sông mới là sông trăng và thuyền chở trăng. Ở đây, Hàn Mặc Tử là một người có đôi mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật, sự thật biến thành một giấc mơ, nhìn vào giấc mơ, nó sẽ biến thành một con hạc huyền diệu. Thơ anh Tư tao nhã quá! Ngọt ngào cả người” (Bích Khê).

Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp của cuộc sống và thiên nhiên. Mặt trăng còn tượng trưng cho hạnh phúc bình yên. Chính vì vậy, hình ảnh thơ Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong lòng người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ, thánh thiện. Lời thơ dậy lên như một câu hỏi vô vọng. Hai dòng khổ thơ sau thể hiện niềm khao khát được gặp mặt đồng thời cũng thể hiện sự xao xuyến. mô phỏng sự chậm trễ. Chỉ một từ “đúng giờ” câu thơ cuối đã nói lên tất cả.

Đến khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình yêu cuộc đời nồng nàn nhưng vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”

Cụm từ “lữ khách phương xa” vừa diễn tả nỗi nhớ nhung da diết, vừa diễn tả sự xa cách của một mối tình đơn phương vô vọng. Vì thế, “mộng khách đường xa” tác giả chỉ thấy “chiếc áo” mà “chẳng thấy đâu”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay cô thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ, khiến tác giả có một cảm giác bâng khuâng thực sự? Chỉ biết rằng đây là hình ảnh vừa rất gần gũi, vừa tha thiết, vừa xa xăm. Gần vì đã trở thành nỗi nhớ thường trực, xa vì khoảng cách thời gian, không gian và khói lửa của một tình yêu không hẹn ước “Áo em trắng quá nhìn không thấy” là một câu thơ khá hay. đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh Huế và cũng là màu gợi nên sự trong trắng tinh khôi rất phù hợp với cô gái trong mộng. Màu trắng bao trùm cả không gian, làm mờ đi tầm nhìn của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra hơn khi ẩn mình trong sương khói hư ảo của xứ Huế nắng mưa khói sương của một mối tình đơn phương. Vậy tình cảm của cô gái thôn Vĩ bao giờ mới bền chặt? “Có ai biết chữ đậm không?”.

Trong nỗi đau tột cùng, nhà thơ vẫn có những phút giây tâm hồn trong sáng để hướng về một miền quê thân thiết và một tình yêu mộng mơ để tạo nên một “viên ngọc thơ ngàn năm tuyệt vời, rực rỡ” Chế Lan Viên.

Tất nhiên, bài thơ có nguồn gốc và cảm hứng cụ thể, nhưng qua phân tích, ta thấy tác phẩm đã vượt ra khỏi ranh giới của cái cụ thể, đạt đến tầm khái quát nghệ thuật cao hướng tới cuộc sống rộng lớn.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là bài thơ bày tỏ tình yêu với một cô gái Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là một lời tỏ tình nồng nàn, một lời trăng trối. Mối tình cuối của nhà thơ Hàn Mặc Tử nói về tình yêu dày vò và quá sâu đậm với cuộc đời này.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Ngọc
20/03 09:50:11
+4đ tặng

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút “tài hoa” nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có lẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn chương của ông. Bài thơ là một bức tranh hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên trong lành, thuần khiết của xứ Huế với bức tranh của một cái tôi yêu đời, khao khát đồng cảm với cuộc đời và con người nhưng đầy lo toan, trăn trở. trở lại.

Câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như một lời quở trách nhẹ nhàng và như một lời mời tha thiết của người con gái Huế. Một lời trách móc nhẹ nhàng, nhưng đằng sau đó là một lời mời đầy ân cần và chân thành: “Sao anh không vào chơi”. Ở đây, tác giả không dùng từ “thăm” mà dùng từ “chơi” đủ thấy sự thân tình, chân chất, giản dị, gợi cảm giác thân thiết, gần gũi. Và hình như, đó cũng là câu hỏi mà nhà thơ đang tự vấn, tự trách mình sao đã quá lâu không trở về chốn xưa, để người xưa nay chỉ còn lại những nuối tiếc, trăn trở trong cơn bạo bệnh. . Đoạn thơ chất chứa bao niềm khao khát được trở về Vĩ Dạ thân yêu.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng câu chữ thơ, một bức tranh Vĩ Dạ lung linh, tươi đẹp và tràn đầy sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cau là loài cây dân dã cũng là linh hồn của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, miếng trầu gắn liền với tình yêu đôi lứa. Trong thơ Hàn Mặc Tử, câu văn gắn liền với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “hàng cau tỏa nắng” là một hình ảnh đẹp gợi sự tinh khiết, trong trẻo của những tia nắng ban mai. Màu của cây cau là một màu rất mới mà trước Hàn Mặc Tử chưa nhà thơ nào có thể gợi ra được. Những giàn cau được bao phủ bởi nắng mới, nắng hòa với những giọt sương đọng trên lá tạo nên vẻ lung linh, duyên dáng. Thiên nhiên trở nên thanh thản, trong trẻo lạ thường, không gian trở nên cao ráo, rộng rãi. Ánh nắng của những cây cau làm bừng sáng cả một khu vườn thơ mộng và hữu tình.

Xa xa là bóng cây cau, khi lại gần khu vườn càng đẹp và tươi mát hơn. Có cây khen xanh tươi, xanh trong, xanh mượt, xanh mướt:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ như sự ngỡ ngàng của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hóa được tưới mát bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mượt” gợi màu xanh, ngọc bích, sắc xuân đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà bằng cách sử dụng từ ngữ độc đáo đã gợi lên bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp, sinh động và cao quý.

Cảnh thôn Vĩ càng trở nên hài hòa với dáng người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Cách nói cách điệu thể hiện vẻ đẹp e lệ, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt hiền từ nhân hậu đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ thêm sống động khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi lên cảnh dòng sông êm đềm, mang theo nỗi buồn và niềm mong ước hão huyền:

“Gió theo lối gió mây đường mâyDòng nước buồn thiu, hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay ? “

Không gian có gió, mây, nước, nên thơ, đêm tĩnh mịch gợi nỗi buồn chia li. Cảnh chia ly “gió theo gió, mây đi theo mây” là nỗi mặc cảm của nhà thơ về tình yêu phải xa cách, không thể đi cùng người yêu. Vì lòng người đầy bi ai nên thiên nhiên cũng buồn theo. Dòng sông vẫn chảy nhưng “buồn bã”, gió xao xuyến, những bông ngô đồng trôi vô định trên mặt nước. “Nước buồn hoa ngô nằm” cảnh gợi sự cô đơn, thê lương, sầu muộn. Dòng sông buồn như chính tâm trạng của nhà thơ.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?”

Những vần thơ “Có kịp mang trăng về kịp đêm nay?” chuyển tải một nỗi niềm của nhà thơ, một niềm khao khát tình yêu được cập bến, được ở bên người để tâm sự, giãi bày. Nỗi nhớ mong, nhớ nhung, khao khát mãnh liệt của tâm hồn được cất lên bằng lời thơ bình dị. Có lẽ lúc này tác giả đang lo sợ vì số phận ngắn ngủi của đời mình. Sợ rằng thời gian ngày càng ngắn lại mà lòng người vẫn không khỏi vơi đi nỗi trống trải, cô đơn, buồn tủi. Liệu chiếc thuyền kia có chở vầng trăng hạnh phúc ấy đến với người đàn ông may mắn này?

Hiện thực khắc nghiệt và hiu quạnh khiến tác giả phải đi tìm giấc mơ, nơi anh có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dù chỉ là một chút hạnh phúc trong ảo ảnh:

“Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không ra;Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?”

Trong giấc mơ đượm màu hy vọng, nhà thơ nhìn thấy từ xa có một vị khách trong tà áo dài trắng tinh, ẩn hiện trong làn sương mờ. Cái bóng dường như mờ đi và biến mất trong tích tắc. Sự thuần khiết, cao quý của cô gái trong ảo mộng khiến nhà thơ không khỏi ái ngại:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?”

Trong bài thơ, tác giả ngập ngừng, lo sợ về một dự cảm vô định. Một trái tim khao khát yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả nghi ngờ về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có phong phú như tình người của chúng ta không?

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi chất chứa những hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp mà buồn, lòng người cũng buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hài hòa giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn có một sức sống dồi dào. Bài thơ không chỉ là bức tranh Vĩ Dạ êm đềm thơ mộng mà còn là bức tranh đẹp của tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát vọng được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo