Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh nhân vật Điền và nhân vật Hộ trong hai đoạn trích trên

Hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) so sánh nhân vật Điền và nhân vật Hộ trong hai đoạn trích trên.

2 trả lời
Hỏi chi tiết
639
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
**So sánh nhân vật Điền và nhân vật Hộ trong hai đoạn trích**

Trong văn học Việt Nam, việc xây dựng nhân vật với những phẩm chất và hoài bão khác nhau luôn tạo nên sự phong phú và đa dạng trong thể hiện tư tưởng của tác giả. Nhân vật Điền và nhân vật Hộ trong hai đoạn trích nổi bật, mặc dù đến từ những hoàn cảnh và bối cảnh khác nhau, đều là những biểu tượng về sự đấu tranh trong cuộc sống và khát vọng chính đáng của con người.

Nhân vật Điền, hiện diện trong bối cảnh một cuộc sống nông thôn êm đềm mà đầy thách thức, được khắc họa với một tâm hồn thuần khiết, chất phác và luôn hướng về những giá trị gia đình. Điền chịu áp lực và gánh nặng của cuộc sống nông thôn mà đâu đó vẫn toát lên một sự lạc quan và bền bỉ. Điền là biểu tượng của người nông dân Việt Nam chịu thương chịu khó, luôn biết nhìn xa trông rộng để bảo vệ gia đình và duy trì cuộc sống bình yên giữa những khó khăn.

Ngược lại, nhân vật Hộ xuất hiện trong một bối cảnh xã hội đầy biến động, nơi mà những lý tưởng cao quý của con người bị thử thách bởi những thực tế tàn nhẫn. Hộ đại diện cho giới trí thức với khát vọng, ước mơ cao cả về một cuộc đời cống hiến hết mình cho nghệ thuật và văn chương. Tuy nhiên, cuộc sống khắc nghiệt khiến Hộ gặp phải những mâu thuẫn nội tâm sâu sắc. Hộ phải chịu đựng những ganh đua, những hành động phản bội lý tưởng ban đầu vì miếng cơm manh áo. Hộ trở thành bi kịch của những con người lạc lối trong hiện thực khắc nghiệt, đồng thời cũng là cái nhìn chân thực về sự bất lực của con người trước viễn cảnh mà họ không thể kiểm soát.

So với Điền, nhân vật Hộ có sự phức tạp hơn về mặt tâm lý. Điền với tính cách giản dị, nhẹ nhàng chịu đựng cuộc sống mà không nhiều đấu tranh nội tâm gay gắt. Hộ mang trong mình sự nổi loạn, đấu tranh và mâu thuẫn giữa lý tưởng và thực tế. Tuy nhiên, ở cả hai nhân vật, ta đều thấy một điểm chung là tình yêu thương gia đình và sự chân thành trong những quyết định của họ, dù là với lý tưởng cao cả hay với những điều bình dị.

Trong khi Điền chấp nhận thực tại và tìm cách hài hòa với nó, thì Hộ không ngừng vẫy vùng, đấu tranh và chìm đắm trong nỗi đau của sự bất lực. Sự đối lập này không chỉ phản ánh hai kiểu tính cách khác nhau mà còn thể hiện những quan điểm sống, cách nhìn nhận và phản ứng trước cuộc sống của con người Việt Nam trong những hoàn cảnh khác nhau.

Tóm lại, thông qua việc so sánh hai nhân vật Điền và Hộ, ta nhận diện được sự phong phú trong cách xây dựng nhân vật của tác giả, cũng như những phản ánh sâu sắc về cuộc sống và con người. Dù ở hoàn cảnh nào, mỗi con người đều có sự đối diện, đấu tranh và tìm cách dung hòa giữa ước mơ và thực tại, giữa lý tưởng và những điều bình dị thường nhật. Đây chính là những giá trị nhân văn sâu sắc mà các tác phẩm văn học muốn gửi gắm đến độc giả.
1
0
Nguyễn Đăng
23/07 15:48:17
+5đ tặng

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
chu
23/07 15:50:06
+4đ tặng
Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì 1930 – 1945. Nghệ thuật xây dựng nhân vật chính là điểm đặc sắc trong các sáng tác của Nam Cao, giúp ông khắc họa sinh động hiện thực cuộc sống của những con người cùng khổ. Điều này được thể hiện rõ trong tác phẩm “Giăng sáng” qua nhân vật Điền.
Trước hết, nhà văn tập trung miêu tả những bi kịch tinh thần, quá trình giằng xé trong nội tâm nhân vật Điền để làm nổi bật nỗi thống khổ của những kiếp người “muốn cất cánh bay cao nhưng bị áo cơm ghì sát đất”. Nam Cao quan tâm đến những nét tâm lí nhỏ nhặt cùng các sự vật hoặc sự việc có tính chất đời thường. Từ những điều nhỏ bé ấy, ông đưa ra những triết lí mang tính phổ quát về thân phận con người, hoàn cảnh xã hội. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Điền và bốn cái ghế mây – thứ duy nhất có giá trị trong nhà Điền. Giọng văn lạnh lùng đến dửng dưng của Nam Cao khiến người đọc tò mò: “Ðiền có bốn cái ghế mây. Tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ có bốn cái ghế mây này là có giá. Không phải Ðiền mua. Tính Ðiền rất ghét mua”. Chỉ xoay quanh bốn cái ghế ấy, Nam Cao đã hé lộ biết bao nỗi niềm của nhân vật. Là một người có học, Ðiền từng làm một ông giáo trường tư trong ngót ba năm. Với một người ôm mộng văn chương, muốn sáng tạo những áng văn bất hủ để đời như Điền thì công việc dạy học cũng có phần đáng chán. Vì hai chục bạc lương mà Điền cố gắng. Ngày trường dẹp, ông hiệu trưởng còn nợ của Điền nửa tháng lương. Ông ta đành ngượng nghịu bảo Điền cầm bộ ghế mây về. Lúc này tâm trạng Điền diễn ra những trạng thái đặc biệt. Điền dồn nén cảm xúc để cái mặt không xị xuống. Bao nhiêu phân vân, tính toán dở khóc dở cười xuất hiện trong đầu óc anh. “Chao ôi! Cũng mang tiếng là ghế mây!... Cái thì xộc xệch, cái thì bốn chân rúm lại, và chẳng cái nào là nước sơn không róc cả ra như là da thằng hủi. Trông đủ thảm.”. Câu văn cho thấy tâm trạng xót xa, khổ tâm hết sức của Điền. Điền ngại đèo bòng mấy chiếc ghế mây, sợ tốn thêm tiền tàu xe mà cũng không dám từ chối ông hiệu trưởng bởi“Họ bị tủi vì người ngoài đã lắm. Chẳng nên để người nọ bị tủi vì người kia”. Điền suy đi, tính lại rồi ưng thuận. Không chỉ Điền mà nhân vật ông hiệu trưởng cũng có những chi tiết phân vân tương tự. Từ đó, nhà văn cho thấy bi kịch của tầng lớp trí thức tiểu tư sản trong xã hội đương thời khi bị cơm áo gạo tiền bóp nghẹt đến mức phải sống tằn tiện, nghèo khổ, thảm hại. “Ðiền tự an ủi: Có tiền rồi sẽ viết. Nhưng Ðiền biết: chẳng bao giờ Ðiền viết nữa, bởi chắc chắn là suốt đời Ðiền cũng không có tiền...”
Diễn biến tâm lý của nhân vật trong “Giăng sáng” thực chất là quá trình đấu tranh, sự chuyển hóa lẫn nhau của những đối cực trong nội tâm con người. Xung đột chủ yếu trong những sáng tác của Nam Cao là xung đột của thế giới nội tâm nhân vật. Kể cả trong “Chí Phèo”, căng thẳng nội tâm cũng diễn ra trước và được nhà văn miêu tả kĩ hơn là phút hành động cuối cùng. Nhân vật của Nam Cao luôn ở trong tâm thế chông chênh giữa một bên là ước mơ cao cả với một bên là hiện thực nghèo túng. Và hơn hết, họ chẳng thể nào thanh thản để chọn lấy một con đường. Điền yêu trăng, coi trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp sang trọng của nghệ thuật. Những tối có trăng, Điền khuân mấy cái ghế ra sân ngồi cùng vợ con. Những phút thảnh thơi hiếm hoi ấy xoa dịu lòng Điền. Nhờ có tâm hồn đẫm văn thơ mà Điền thấy người vợ mới cằn cỗi làm sao! Lúc nào thị cũng tính toán, luôn luôn tính toán. Điền cho rằng điều ấy nhỏ nhen và tầm thường. Thế nhưng, chính Điền cũng vô thức trở thành kẻ tính toán lúc nào không hay. Khi chứng kiến cảnh nheo nhóc của gia đình, bỗng nhiên Điền nảy sinh nỗi đau quằn quại. Đấu tranh nội tâm gay gắt đang tra tấn Điền. “Còn sống trong cái gia đình này mãi, giữa những lo lắng nhỏ nhen này mãi, lòng Ðiền sẽ cạn. Cạn luôn cả nguồn thơ quý báu, mà Ðiền vẫn ao ước có ngày lại khơi...”. Chỉ có những người đàn bà đẹp mới biết yêu văn chương của Điền và ý nghĩ này làm chính anh ta thấy xấu hổ. Nam Cao đã đi sâu vào từng ngóc ngách của tâm trạng con người để vén bức màn đang che giấu những khát khao thầm kín. Giữa lúc ý định muốn bỏ đi trở nên rõ rệt, cơn ốm cùng tiếng rên đau đớn của đứa con, sự tức giận đến khổ sở của người vợ làm Điền sực tỉnh. Tình thương con, tinh thần trách nhiệm đã kéo Điền về với thực tại. Khi phản ánh mâu thuẫn giữa hiện thực và sự mơ mộng, nhà văn thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Họ rời xa tầng lớp lao động cần lao để sống với ảo tưởng. Bi kịch của Điền đến từ sự ngộ nhận, chọn lựa sai lý tưởng sống. Miêu tả những mâu thuẫn âm thầm mà căng thẳng trong nội tâm nhân vật, Nam Cao đã đưa ra tuyên ngôn đúng đắn về nghệ thuật. Nhà văn phải “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang động của đời”.
Nhân vật Điền hiện lên chủ yếu qua quá trình diễn biến tâm lí phức tạp. Sự thay đổi trong nhận thức dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn, cách cảm nhận thế giới xung quanh. Trong“Chí Phèo”, nhờ có bát cháo hành của Thị Nở mà Chí cảm thấy khung cảnh buổi sáng hôm sau đẹp lạ thường. Ở đây, cảm nhận của Điền về ánh trăng trước và sau cũng có rất nhiều thay đổi.
Như vậy, với cách chọn lựa đối tượng nhân vật phù hợp, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, ngôn ngữ trần thuật cùng điểm nhìn linh hoạt, Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật Điền – hình ảnh đại diện cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản trước Cách mạng. Tác phẩm là truyện ngắn mang đậm tinh thần hiện thực phê phán, tiêu biểu cho phong cách Nam Cao và xứng đáng trở thành tuyên ngôn nghệ thuật cao cả của nhà văn.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Câu hỏi Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo