Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm nhận bài thơ Độc Tiểu Thanh kí

2 trả lời
Hỏi chi tiết
281
1
0
doan man
16/12/2018 22:21:14
Một tác phẩm chân chính là một tác phẩm vượt qua bờ cõi, và giới hạn, chứa đựng những điều vừa lớn lao, vừa đau khổ, ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình nó làm cho người gần người hơn. “Độc tiểu thanh kí” của thi hào Nguyễn Du là một áng thơ như vậy, nó đã vượt qua bờ cõi và giới hạn của Việt Nam và Trung Quốc để bằng tấm lòng bao la, đồng cảm của mình Nguyễn Du tri âm với nàng Tiểu Thanh bạc mệnh, bài thơ gửi gắm những triết lí sâu sắc và những giá trị nhân văn sâu sắc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Du đã vẽ ra một cảnh tượng hoang vu đến tàn tạ:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.”
Cảnh đẹp Tây Hồ xưa kia đẹp đẽ và thơ mộng bao nhiêu thì giờ đây lại chẳng còn lại gì, chỉ còn là một bãi hoang phế, đổ nát. Động từ “tẫn” diễn tả sự biến đổi một cách đột ngột đến mức triệt để không còn dấu vết gì, đứng giữa hiện tại nhà thơ bâng khuâng nuối tiếc cái đẹp trong quá khứ. Câu thơ mở đầu vừa là niềm cảm thương nuối tiếc cho cái đẹp trong quá khứ bị hủy hoại để cho thấy những dâu bể của cuộc đời thì ở đó số phận của cái đẹp chịu sự chi phối nghiệt ngã của thời gian vô tình “Tạo hóa gây chi cuộc hí trường”. cái đẹp ấy gợi nhắc đến nàng Tiểu Thanh-một người con gái xinh đẹp, tài hoa, đã sống những năm tháng cay đắng, cô đơn ở hiện tại này:
“Độc điếu song tàn nhất chỉ thư”.
Với hai chữ “độc, điếu” câu thơ đã khắc họa vào lòng người đọc một cảnh ngộ cô đơn phải tìm về quá khứ để chia sẻ. Chính nỗi đau và sự cô đơn đã trở thành sợi dây kết nối vượt thời gian không gian để tri âm, tri kỉ với nhau, hiểu lòng nhau và đồng cảm sâu sắc cho nàng Tiểu Thanh của Nguyễn Du. Hai câu thơ đầu, với hình ảnh đối lập nhà thơ đặc biệt bộc lộ tấm lòng đồng cảm thương xót cho số phận bạc mệnh của nàng Tiểu Thanh. Hình ảnh mảnh giấy tàn ở câu thơ thứ hai tiếp tục khơi tiếp cho câu thơ thực:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”.
Son phấn vừa thực, vừa ẩn dụ cho nhan sắc, vẻ đẹp của Tiểu Thanh. Văn chương là tác phẩm nghệ thuật, sáng tạo tinh thần của người nghệ sĩ, tâm huyết và tài năng của Tiểu Thanh. Tiểu Thanh có linh thiêng chắc phải bận lòng, xót xa hững việc sau khi chết. xót xa là vì đã chết trong đau đớn, cô độc uất hận sầu khổ nhưng người vợ cả vẫn không buông tha, vẫn cứ giày vò nàng thêm một lần nưa. Văn chương có số mệnh gì vậy mà cũng bị đem đốt, bị hủy diệt. hai câu thơ thực là bức phác họa chân dung của Tiểu Thanh vừa tài hoa, tuyệt sắc nhưng cái tài bị đốt, cái sắc bị chôn, đều bị hủy diệt. vẫn là nghệ thuật đối cân chỉnh để qua đó bộc lộ nỗi thương cảm xót xa Của nhà thơ trước số phận bạc mệnh của cái đẹp, cái tài chân chính. Đồng thời tố cáo xã hội phong kiến bất công là môi trường khiến cái đẹp, cái tài bị hủy hoại, không có chỗ dung thân. đó cũng là thuyết bạc mệnh mà Nguyễn Du đã nêu ra, rằng trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Hai câu luận:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”.
Nỗi hận xưa nay về số mệnh bất công của con người là câu hỏi muôn thuở, nhưng câu hỏi ấy mãi mãi chỉ là sự vô vọng không có lời giải đáp cụ thể, tròi cũng bất lực. Câu thơ viết bằng giọng oán trách, bất bình về nỗi bất công khi cái tài cái sắc luôn bị vùi dập, hủy diệt, Nguyễn Du gửi gắm vào đó nỗi xót xa khi nhận ra đó cũng là số phận chung của những khách phong vận. tự nhận mình là người mắc nỗi oan lạ, cũng là kẻ cùng trường bạc mệnh, đó là sự thể hiện ý thức cá nhân sâu sắc về tài năng và nỗi đau, nhưng còn có sự đồng cảm, thương xót với nỗi đau của người cùng khách phong vận. Tình thương ấy vừa mênh mông, vừa sâu sắc. Qua đó bày tỏ nỗi thấm thía bất công muôn đời của người tài hoa. Đến hai câu kết, là nỗi khát mong của người nghệ sĩ muôn đời mong được tri âm, đồng cảm:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.
Không biết hơn 300 năm lẻ sau, có ai khóc thương Tố Như không. Nhà thơ mong rằng mình có người biết đến bởi sự thấu hiểu và đồng cảm của những người cùng là khách phong vận, mê đắm văn chương. Kì thực, Nguyễn Du đã nêu lên khát vọng muôn đời của người nghệ sĩ, trong hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình, họ luôn mong muốn nhận được sự tri âm, đồng cảm sâu sắc bởi thi sĩ muôn đờ luôn luôn gặp nhau ở một điểm đó là sự cô đơn.
“Độc tiểu thanh kí” là tiếng khóc thương người đồng thời cũng là tiếng khóc thương mình, đó là trái tim nhân đạo bao la vừa mênh mông vừa sâu thẳm của Nguyễn Du. Bài thơ tuân thủ những quy tắc nghiêm túc và chặt chẽ của quy luật thơ Đường. từ ngữ cô đọng, hàm súc hình ảnh giàu tính biểu tượng đã làm nên sức sống nghìn thu của “Độc tiểu thanh kí” và trên hết là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của thi hào dân tộc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
17/12/2018 07:05:30
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi
Trước song một mình nhớ tới người xưa qua một tờ giấy viết).
Câu thơ mở đầu như một tiếng thở dài não ruột. Không gian Tây Hồ vẫn còn đây, khuôn viên của một vườn hoa với những bông hoa thắm đẹp giờ đã không còn nữa. Vườn hoa đã thành gò hoang, gò hoang vắng đã thay thế cho vườn hoa. Cái “hữu” đã thành cái không, cái “đẹp” đã bị thay bởi cái “tàn tạ” hủy diệt. Từ “tận” mang ý nghĩa phủ định tuyệt đối; đã thay đối hết không còn một dấu vết gì nữa. Chứng thực một không gian đẹp là khoảng đất bên Tây Hồ, để đối chứng quá khứ vàng son với hiện tại hủy diệt, Nguyễn Du đã nhìn thấy cuộc thương hải tang điền trong chớp mắt “Trải qua một cuộc bể dâu”, “Thế gian biến cải vũng nên đồi”, một con người được ghi ở một tờ giấy viết thật mong manh. Tờ giấy viết đây chính là bài “kí” có khoảng 2300 chữ ghi lại chuyện Tiểu Thanh của người đời sau.
Nếu vườn hoa đã tận thành gò hoang là chứng tích của một thời thì mảnh giấy này là chứng tích còn sót lại của một đời người. Một oan hồn thông khổ trong hành lang hun hút của thời gian ba trăm năm trước. (Theo trong bài kí thì Tiểu Thanh chết 1492 và Nguyễn Du đi sứ nhớ tới nàng, khóc nàng năm 1813 nghĩa là hơn 300 năm).
Cái nhìn trầm ngâm của Nguyễn Du về cuộc bể dâu của sự vật và cái lẻ nhân sinh của kiếp người sao mà cô đơn đến thế. Cái đẹp bị hủy hoại cùng triệt, dòng thời gian cứ chảy vô tình. Cái lẻ loi và đơn độc của Nguyền Du không chỉ hiện hình ở cái cảnh buổi chiều tàn bên song cửa sổ, ngồi dọc chuyện buồn mà còn thể hiện ở hai chữ “độc” và “nhất” đó.
Hai câu thực:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
(Son phấn có thần sắc chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết).
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở
Trong truyện Tiểu Thanh kí tác giả kể, trước khi chết, Tiểu Thanh thuê họa sĩ vẽ chân dung mình. Bức hình thứ nhất nàng chê có hình tự mà không có thần, bức thứ hai có thần nhưng phong thái khô cứng, gò bó. Sang bức thứ ba nàng khen vừa có hình, có thần, lại dịu dàng yểu điệu. Tiểu Thanh treo bức hình mình lên tế rồi khóc đến chết. Người chồng nghe tin chạy đến nhìn sắc mặt vợ và bức tranh thấy như người còn sống thương tiếc và khóc lóc. Lúc vợ cả cái nạp tranh và thơ, người chồng chỉ nạp thơ và bức tranh thứ nhất. Do đó, Nguyễn Du đã viết rất thực tế để tả cái oan trong đời Tiểu Thanh. Sắc là thế nhưng chết rồi mới được chồng đoái thương, văn chương là thế mà cũng bị đốt, may còn sót lại mấy bài.
Ý nghĩa của hai câu thực còn chìm ấn bên trong tính chất luận. Bề ngoài thì Nguyễn Du dã nắm bắt hai chi tiết có thần nhất để làm nổi bật cốt truyện, nhưng bên trong thì nói lại một quan điểm. Dù có bị những lực lượng hắc ám phũ phàng tận diệt thì nhan sắc của giai nhân, tài hoa của con người không dễ gì bị tiêu diệt. Qui luật vô hình vẫn dành cho nó những cơ may để tồn tại. Nó không chết, nó vẫn cùng cây đời mãi mãi xanh tươi. Tuy nhiên, để tồn tại sắc tài vẫn phải vật vã và trầm luân đau khổ lắm!
Nếu như bốn câu trên có phần “hướng ngoại”, quan tâm tới câu chuyện Tiểu Thanh thì bốn câu sau tác giả suy ngẫm về mình. Cảm hứng bốn câu trên nằm trong cảm hứng chung của Nguyễn Du về sự thương xót và ngưỡng mộ những tài tử giai nhân: “Sắc tài sao mà chịu kiếp truân chuyên”. Bốn câu sau “hướng nội”. “Trông người lại ngẫm đến ta”, cảm xúc chủ đạo ỡ đây là sự cô độc tuyệt đối của Nguyễn Tiên Điền!
Hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Những việc tiếc hận ngày xưa không hỏi trời
Ta tự ở vào cái oan kì lạ của phong vận)
Ở đây ta nên hiểu “hận sự” đó là những việc không hài lòng một cách sâu sắc có thể để hối tiếc mãi. Nó không phải là “thù hận” mà là “tiếc hận”. Vì thế nghĩa hàm ẩn của nó là: “Những việc tiếc hận xưa nay không thể truy tìm được nguyên nhân”. Ta nên lưu ý các nhà Nho không oán người, không trách trời, nên không thể coi đây là lời chỉ trích oán hận trời.
“Phong vận” là từ nói tắt của “lưu phong dư vận” nghĩa là gió thổi nước trôi, biểu hiện sự hài hòa rất mực, biểu hiện của tài tình, của bất diệt. Những kẻ “phong vận” thường có con đường hạnh phúc may mắn vạch ra phía trước, họ phong lưu tức họ bất diệt. Thế nhưng sao ở ta, ở số kiếp bao nhiêu người mà ta chứng kiến thì những người ấy thường gặp oan trái kì lạ khó hỏi trời. Các quy luật đã bị lộn ngược oái oăm đến mức không thể giải thích. Nghĩa hàm ẩn của câu này là: Những kẻ phong vận tài tình bị oan trái thì thông cảm được với nhau.
Ta thấy mình cũng chịu nỗi oan kì lạ như người phong vận đấy (Người thơ phong vận như thơ ấy). Nguyễn Du đã xếp mình đồng hội đồng thuyền với những số kiếp tài hoa bạc mệnh. Ông không lí giải được tại sao đời mình lại gặp nhiều trầm kha oán trái thế: “Tráng niên ngã dực vi tài giả” (Thời trẻ ta cũng là kè có tài mà). Ý thức được mình như thế, để hôm nay ngậm ngùi ngơ ngác hỏi vào thinh không. Thế mà sao ta cứ như những người phong vận mắc nỗi oan lạ lùng? Các câu thơ thúc ép nhau để rồi “thiên nan vấn”. Câu hỏi ấy va đập vào cái vô hình tạo thành một nỗi đau thấm đến gan ruột.
Hai câu kết:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai nhỏ nước mắt khóc cho Tố Như chăng?)
Người xưa cho rằng những kẻ đồng thanh thì tương ứng, đồng khí thì sẽ gặp nhau. Vì thế chỉ cần Kiều tỏ lòng thành với Đạm Tiên: “Chớ nề u hiển mới là chị em”, thì: “Phút đâu ngọn gió cuốn cờ đến ngay”. Con người “đồng khí” thường tái sinh và gặp nhau ở tương lai. Nguyễn Du sống sau Tiểu Thanh hơn ba trăm năm, ông hiểu và đống nỗi oan kì lạ như Tiểu Thanh nên ông khóc nàng. Chẳng biết sau khi ta nhắm mắt ai là kẻ đồng oan khóc ta? (Hôm nay em khóc chị, ngày mai ai khóc em?).
Nguyễn Du quả nhắm mắt không yên khi không biết tương lai có ai hiểu ông không? Niềm khắc khoải ấy lại là một sự tiên cảm của thiên tài; ông mong chờ một tấm lòng hô ứng nhưng chỉ mới hai trăm năm trôi qua Nguyễn Du đã được đánh giá là đại thi hào dân tộc:
Tiếng tha ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
(Tố Hữu - Kính gửi cụ Nguyễn Du)
Con cháu của Nguyễn đã khóc Nguyễn thực lòng. Đã “khấp” tức là nhỏ nước mắt chân thành chứ không phải “khốc” tức là khóc to lên, nhiều lúc không cần nước mắt.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo