Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 500 chữ phân tích, đánh giá nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của đoạn trích sau

viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 500 chữ phân tích , đánh giá nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của đoạn trích sau : 

[...]- Da bà xấu quá! Sao bà gầy thế?

- Chỉ đói đấy thôi, cháu ạ. Chẳng sao hết.

- Lớp này bà ở cho nhà ai?

- Chẳng ở với nhà ai.

- Thế lại đi buôn à?

- Vốn đâu mà đi buôn? Với lại có vốn cũng không đi được. Người nhọc lắm.

- Thế thì lấy gì làm ăn?

- Chỉ nhịn thôi chứ lấy gì mà ăn!

Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:

- Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.

Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:

- Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!

[...] Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…

Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:

- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…
                                                  (MỘT BỮA NO, 1943 - Tuyển tập Nam Cao nhà xuất bản thời đại)

Nam Cao (1915/1917 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri. Ông để lại khối lượng tác phẩm lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện ký như các tác phẩm : 'Lão Hạc', 'Chí Phèo', 'Giăng Sáng',... Ông đề cao tư tưởng con người, quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá 'con người trong con người'
Một bữa no kể về bà lão mất chông sớm, cả đời lao động nuôi con. Những con mất sớm, con dâu chịu tang chồng cũng rời bỏ, để lại bà với đứa cháu gái nhỏ. Hai bà cháu sống nương tựa nhau bảy năm, nhưng khó khăn quá, bà bán cháu gái cho nhà bà Phó làm con nuôi. Bà lâm bệnh, số vốn ít ỏi cũng theo đó mà cạn kiệt, bà phải làm thuê cho nhà người ta nhưng rồi cũng mất việc. Một ngày, bà đến thăm cái đĩ và xin một bữa cơm, nhưng bị bà phó thụ đạp lên lòng tự trọng. Bữa cơm no nhất của bà cũng là  bữa cơm cuối cùng trong đời bà. Đoạn trích trên thuộc phần cuối của tác phẩm

 
    3 trả lời
    Hỏi chi tiết
    96
    Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
    Trong đoạn trích tác phẩm "Một bữa no" của Nam Cao, ta cảm nhận rõ nét những khía cạnh đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật, thể hiện tài tình quan sát tâm lý và số phận bi thảm của con người trong xã hội lúc bấy giờ.

    Đầu tiên, nội dung đoạn trích đưa ra một bức tranh sinh động về cuộc sống khổ cực của bà lão – hình ảnh tiêu biểu cho những người phụ nữ nghèo khổ trong xã hội. Bà lão không chỉ phải vật lộn với cái đói mà còn phải đối mặt với cái nghèo, cái khổ trong tinh thần. Những câu hỏi của đứa cháu thể hiện sự ngây thơ, nhưng cũng thật chân thực, khiến ta cảm nhận được sự thiếu thốn trầm trọng trong cuộc sống của bà. Điều đó càng sâu sắc khi bà trả lời cho những câu hỏi bằng sự khiêm tốn, không muốn nhận sự thương hại từ cháu của mình. Mặc dù là một đứa trẻ, nhưng cháu gái vẫn phải đối mặt với thực tại phũ phàng của cuộc sống.

    Nỗi khổ của bà không chỉ là cái đói, mà còn là sự mệt mỏi, đau đớn mà món ăn mang lại. Câu nói “Đói cũng khổ mà no cũng khổ” chính là một triết lý giản đơn nhưng cũng đầy sâu sắc về cuộc sống của những người nghèo. Bà phải sống từng ngày, từng bữa cơm để kiếm sống, nhưng rốt cuộc khi có một bữa ăn no đủ cũng chính là sự kết thúc của cuộc đời bà. Nam Cao đã khéo léo thể hiện sự mâu thuẫn trong cuộc sống của con người, nơi mà niềm vui và nỗi khổ không thể tách rời.

    Về mặt nghệ thuật, Nam Cao đã thể hiện phong cách viết sắc sảo, tinh tế với những diễn biến tâm lý sâu lắng. Ngôn ngữ trong đoạn trích vừa giản dị, vừa giàu hình ảnh. Cùng với đó, ông đã sử dụng rất nhiều phép tu từ như so sánh và điệp từ để nhấn mạnh cảm xúc của nhân vật. Những câu văn như “Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoải mái” hay “Oái chao! Già yếu thì khổ thật” cho thấy một sự trĩu nặng trong tâm hồn của bà, khiến người đọc không khỏi xót xa cho số phận của bà.

    Nam Cao còn khéo léo tạo dựng tình huống đầy ý nghĩa, từ một bữa ăn đầy đủ lại trở thành cái kết cho cuộc đời bi thảm của bà lão. Cái chết của bà không chỉ là kết thúc của một cuộc đời, mà còn thể hiện được sự tàn nhẫn đến từ xã hội đã đối xử với bà như thế nào. Câu nói “Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết” vừa châm biếm vừa hàm chứa những nỗi niềm sâu sắc về cuộc sống của những người nghèo khổ.

    Cuối cùng, tác phẩm "Một bữa no" không chỉ phản ánh nỗi đau khổ của một con người mà còn là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội đương thời với những bất công, tình trạng nghèo đói và sự tha hóa nhân đạo. Đoạn trích là bản cáo trạng về số phận của những người phụ nữ trong xã hội, một thông điệp mạnh mẽ về tình thương và lòng nhân ái mà chúng ta cần trân quý. Nam Cao đã thực sự khắc họa thành công hình ảnh nhân văn của con người giữa những khắc nghiệt của cuộc đời.
    1
    0
    Ýe
    31/08 20:35:40
    +5đ tặng

    Đoạn trích từ tác phẩm "Một bữa no" của Nam Cao là một minh chứng sắc nét cho phong cách nghệ thuật và nội dung nhân văn sâu sắc của ông. Thông qua hình ảnh bà lão nghèo khổ, Nam Cao không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy bất công, mà còn khơi dậy lòng trắc ẩn và sự thấu hiểu đối với những phận đời khốn khó.

    Về nội dung, đoạn trích tập trung miêu tả một bữa ăn tưởng chừng đơn giản nhưng lại là bữa ăn cuối cùng của bà lão. Bữa cơm này không chỉ thỏa mãn cơn đói về thể xác mà còn ẩn chứa sự khắc nghiệt và bi thương của cuộc đời. Bà lão đã trải qua biết bao nhiêu khó khăn, nhọc nhằn, đến mức mà một bữa ăn no cũng trở thành thứ xa xỉ và nguy hiểm. Qua cái chết của bà, Nam Cao phơi bày hiện thực xã hội đầy bất công, nơi mà sự nghèo đói và thiếu thốn không chỉ cướp đi sức khỏe mà còn cả nhân phẩm của con người. Từ đó, tác phẩm đặt ra một câu hỏi lớn về giá trị của cuộc sống và con người trong một xã hội đầy khắc nghiệt.

    Về nghệ thuật, Nam Cao sử dụng lối kể chuyện tự nhiên, giản dị nhưng đầy sức nặng. Ngôn ngữ của ông chân thực, gần gũi với đời sống thường nhật, tạo nên một cảm giác chân thực và xúc động. Những đoạn đối thoại giữa bà lão và bà Phó Thụ là minh chứng cho sự tinh tế trong việc khắc họa tâm lý nhân vật. Bà lão hiện lên với tất cả sự cam chịu, nhẫn nhục, nhưng cũng không thiếu sự cay đắng và tủi hổ. Hình ảnh bà lão ăn cơm trong đau đớn và sự châm biếm đầy cay nghiệt của bà Phó Thụ thể hiện sự đối lập giữa hai tầng lớp xã hội: một bên là những người nghèo khổ, khốn cùng; bên kia là những kẻ giàu có, vô cảm và tàn nhẫn.

    Ngoài ra, Nam Cao còn sử dụng biện pháp tương phản để làm nổi bật sự đối lập giữa cái đói và cái no, giữa sự sống và cái chết. Cái chết của bà lão không chỉ là hệ quả tất yếu của một xã hội đầy bất công mà còn là lời cảnh tỉnh về sự vô cảm và tàn nhẫn của con người đối với nhau.

    Tổng thể, đoạn trích "Một bữa no" của Nam Cao không chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo mà còn chứa đựng thông điệp nhân văn sâu sắc. Nam Cao đã khắc họa thành công một hiện thực xã hội đầy đau thương, từ đó gợi lên sự đồng cảm và suy ngẫm về giá trị của cuộc sống, nhân phẩm và lòng nhân ái.

    Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

    (?)
    Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
    Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
    Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
    Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
    1
    0
    Nguyệt
    31/08 20:35:45
    +4đ tặng

    Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã nhận xét: “Nếu như ở tác phẩm của Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, thì ở tác phẩm của Nam Cao lại là tiếng kêu cứu lấy nhân cách, nhân phẩm, nhân tính của con người đang bị cái đói và miếng ăn làm cho tiêu mòn đi, thui chột đi, hủy diệt đi”. Các tác phẩm của Nam Cao chân thực đến đáng sợ, thể hiện một ý thức rõ ràng và chính xác trong việc phân tích vấn đề cuộc sống. Ông tập trung vào sự thật và thực tế, đem đến những hình ảnh sống động về cuộc sống của người nghèo. Từ "Lão Hạc" đến "Chí Phèo" và "Đời thừa", mỗi tác phẩm đều nêu lên câu chuyện của những nhân vật và số phận khốn khổ, đối mặt với những bất công trong xã hội. Trong số các tác phẩm của Nam Cao, "Một bữa no" là một truyện ngắn đầy cảm động. 

          Truyện ngắn "Một bữa no" của Nam Cao tập trung vào nhân vật người bà, một người phụ nữ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Sau khi chồng mất sớm, bà phải một mình nuôi con. Bà hy vọng rằng con sẽ giúp đỡ bà khi bà già yếu, nhưng con lại bỏ bà một mình. Con dâu của bà cũng không có lòng nhân từ và ngay sau đám tang chồng, con dâu cũng rời bỏ bà và để lại đứa cháu nhỏ cho bà nuôi dưỡng. Khi đứa cháu trưởng thành, nó đã bắt đầu kiếm sống để giúp bà giảm bớt khổ cực. Tuy nhiên, khi bà mắc bệnh và không đủ kinh phí, bà buộc phải đi làm thuê cho người khác. Ban đầu có nhiều người muốn thuê bà, nhưng sau một thời gian ngắn, đến cuộc sống của mình còn không lo được thì ai lại lo cho một bà già bệnh tật như thế nữa? Bà không có việc gì để làm, bị cái đói và bệnh tật hành hạ, chỉ nhờ vào sự thương hại của một người chủ cuối cùng để sống qua ngày. Bà không giữ được phẩm giá của mình và phải xin ăn từ chợ với tấm thân già yếu và mệt mỏi. Cuộc sống của người phụ nữ bất hạnh này chỉ còn hy vọng vào những bữa cơm mà thiên hạ thương hại cho mình. 

          Một lần sau nhiều ngày chịu đói, khi được một bữa ăn, bà không cầm đũa được vì tay chân run rẩy và không thể nắm thức ăn, khiến thức ăn tràn ra khỏi đĩa. Mặc dù bị khinh bỉ và chê cười trong suốt bữa ăn, bà không cảm thấy xấu hổ và ăn với niềm vui. Trong khi mọi người đã kết thúc việc ăn, bà vẫn ngồi miệt mài ăn, như thể chưa từng có cơ hội được no bụng. Có vẻ như sau quá lâu không được ăn cơm, bà ăn mãi vẫn không thấy no. Sau bữa ăn hoành tráng đó, bà trở về nhà với bụng căng tròn đầy, nhưng cảm thấy mệt nhọc. Sau đó, bà bị đau bụng, tiêu chảy và kéo dài suốt nửa tháng trước khi qua đời. Cái chết đến bất chợ khi bà đã có một bữa ăn no, nhưng đáng thương và đáng xấu hổ xiết bao! Trong cơn đói khát khốn nạn, bà không thể giữ được phẩm giá của mình và bà đã ăn một bữa ăn đầy đau khổ, cuối cùng chết một cách đáng thương. Tác phẩm kết thúc bằng lời răn của bà Thụ đối với đám con gái, con nuôi và con thụ: "Chúng mày hãy nhìn đi, con người đói đến mức nào cũng không chết, nhưng khi no một bữa là đủ để chết. Chúng mày hãy biết điều đó và hãy biết ăn một cách tử tế!...". 

         Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên sự hấp dẫn, lôi cuốn của một của tác phẩm văn xuôi. Tình huống truyện là những hoàn cảnh bất thường mà con người buộc phải bộc lộ bản lĩnh, tính cách của mình. Nó đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thể hiện số phận cũng như tính cách nhân vật, là một trong những vấn đề cốt lõi, là chìa khóa khi khám phá tác phẩm. Truyện ngắn “một bữa no” đề cập đến vấn đề rất bình thường trong xã hội xưa, khi mà con người ta phải lo từng bữa ăn. Bao khó khăn luôn đè nặng lên những người nông dân bé nhỏ. Khiến con người ta phải đánh đổi nhiều thứ vì quá nghèo đói. Trong tác phẩm, Nam Cao đã đưa nhân vật bà lão nghèo khổ vì một bữa ăn mà đánh đổi cả cuộc sống của mình. Tác giả đã dựng lên một tình huống đầy căng thẳng, éo le khi một gia đình nông thôn chờ con cháu từ thành phố trở về với hy vọng có một bữa ăn no đủ. Sự mong đợi này tạo ra căng thẳng và kỳ vọng lớn đối với nhân vật chính. Tác phẩm truyện xoay quanh người bà có chồng mất sớm, con trai cũng mất, con dâu thì bỏ bà đi lấy chồng mới, để lại cho bà đứa cháu nhỏ. Đã khổ lại càng thêm khổ, khi bà lâm một trận ốm nặng, bao nhiêu tiền bạc cũng cạn kiệt. Thân già yếu mòn, không có nơi lương tựa bà đành lấy tấm thân tàn tạ của mình ra chợ ăn xin. Nam Cao đã xây dựng một tình huống truyện hết sức đau đớn. Đưa nhân vật bà cụ già đến tận cùng của cái đói khổ. Khi mà cuộc sống của bà chỉ trông cậy vào những bữa cơm mà thiên hạ ban phát cho ăn. Mặc dù bị khinh bỉ, nhưng bà vẫn không thấy xấu hổ và ăn được mỗi một cách ngon lành. Ngồi bút của Nam Cao rất lạnh lùng mà lại đầy tình thương. Cái chết của bà lão là cái chết no nhưng rất hèn hạ tủi nhục. Trong cơn đói khát bà không còn giữ được nhân phẩm của mình để rồi phải chết một cách nhục nhã.

    Bằng ngồi bút đồng cảm với số phận đau khổ của những người dân nghèo trong xã hội xưa, Nam Cao đã xây dựng lên nhân vật người bà rất đáng thương. Bà đã sớm mất chồng, cậu con trai cũng mất để rồi khi một bà lão bảy mươi tuổi phải nuôi đứa cháu nhỏ cho con. Dù có mạnh mẽ, chăm chỉ đến đâu thì sức yếu của người tuổi già cũng không tránh khỏi những cơn đau ốm. Bà đã bỏ hết liêm sỉ của mình, mà ăn bữa ăn bố thí không cảm thấy xấu hổ. Sau bữa ăn no bà về nhà với cái bụng căng tròn đầy mệt nhọc. Chính điều đó đã dẫn đến cái chết tuổi nhục, hèn hạ. Ta đã từng thấy nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao cũng vì cái đói nghèo, khó khăn đầy rẫy bất công của xã hội khiến con người ta mất đi nhân tính, cái phẩm chất cao đẹp ẩn sâu trong con người. Nam Cao đã xây dựng nhân vật một cách chi tiết đầy sống động. Với các nhân vật gồm ông nội, cha mẹ và hai đứa nhỏ đã góp phần làm nổi bật lên nhân vật chính là người bà. Nam Cao đã đặc biệt chú trọng miêu tả cuộc sống khó khăn, đói nghèo của bà cụ. Qua đó tác giả đem đến cho độc giả những cảm nhận chân thực nhất về cuộc sống khó khăn, về tình yêu thương và niềm hy vọng trong một gia đình nông thôn.

          Những trang truyện cuối cùng khiến lòng người đọc tràn đầy cảm xúc và dư vị khó quên. Nó mang đến sự đau lòng cho số phận đáng thương của những người nông dân trong xã hội phong kiến xưa, cũng như làm tức giận trước sự bất công của những người có quyền lực, đã đẩy những người tốt bụng vào con đường biến chất. Không chỉ "Một bữa no", mà còn những câu chuyện khác của Nam Cao đều chạm đến lòng người như vậy. Các truyện ngắn của ông không sử dụng ngôn từ hoa mỹ, mà từ nhân vật, hình thức và nội dung câu chuyện đều đơn giản và chân thực. Chính vì vậy, Nam Cao dẫn dắt người đọc đến sự cảm thông chứ không phải là tình cảm giả tạo và lấp lánh. Như Nam Cao từng nói trong tác phẩm "Đời thừa" của mình: “Người mạnh không phải là người dùng người khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Người mạnh chính là người giúp đỡ người khác trên vai mình”.

    1
    0
    Amelinda
    31/08 20:36:14
    +3đ tặng
    Đoạn trích "Một bữa no" trích từ tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao đã khắc họa một cách chân thực và cảm động số phận bi thảm của người phụ nữ nghèo khổ trong xã hội cũ. Qua hình ảnh bà lão, tác giả đã phơi bày những bất công xã hội, sự tàn nhẫn của con người và nỗi đau khổ tột cùng của những người yếu thế.
    Về nội dung, đoạn trích tập trung khai thác chủ đề về sự nghèo đói, bất công và cái chết. Hình ảnh bà lão già nua, bệnh tật, phải vật lộn kiếm sống trong cảnh nghèo khó đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bữa cơm no mà bà lão nhận được không phải là niềm vui mà là nỗi đau đớn tột cùng. Cái chết của bà không phải là kết thúc của một cuộc đời mà là sự kết thúc bi thảm của một kiếp người. Qua đó, tác giả lên án gay gắt xã hội bất công, nơi mà con người bị bóc lột, bị đối xử tàn nhẫn.Về nghệ thuật, Nam Cao đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật để xây dựng hình tượng nhân vật và khắc họa cảnh ngộ của bà lão. Ngôn ngữ nhân vật chân thực, gần gũi với đời sống của người dân lao động. Các chi tiết miêu tả ngoại hình, hành động, tâm lý nhân vật đều rất sống động, tạo nên một bức tranh hiện thực đầy ám ảnh. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, điệp ngữ để tăng sức biểu cảm cho tác phẩm. Hình ảnh bà lão "như một con gà con nuốt nhái", "bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước" đã trở thành những hình ảnh tượng trưng cho nỗi đau khổ của con người.Đặc biệt, đoạn trích còn gây ấn tượng mạnh bởi giọng văn xót xa, chua chát của tác giả. Nam Cao đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh đầy ám ảnh để thể hiện sự đồng cảm sâu sắc với nhân vật của mình. Đồng thời, ông cũng lên án mạnh mẽ những kẻ giàu có, tàn nhẫn, đã đẩy người nghèo vào cảnh khốn cùng.
    Cái chết của bà lão không chỉ là kết thúc của một cuộc đời mà còn là một lời tố cáo xã hội. Câu nói của bà phó Thụ "Bà chết no" đã trở thành một câu nói đanh thép, phơi bày bản chất tàn nhẫn của con người.Tóm lại, đoạn trích "Một bữa no" là một tác phẩm văn học có giá trị nhân văn sâu sắc. Qua đó, Nam Cao đã thể hiện tài năng nghệ thuật xuất sắc của mình và để lại trong lòng người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, về con người và xã hội.

    Bạn hỏi - Lazi trả lời

    Bạn muốn biết điều gì?

    GỬI CÂU HỎI
    Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
    Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

    Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

    Vui Buồn Bình thường

    Học ngoại ngữ với Flashcard

    ×
    Gia sư Lazi Gia sư
    ×
    Trợ lý ảo Trợ lý ảo