[...]- Da bà xấu quá! Sao bà gầy thế?
- Chỉ đói đấy thôi, cháu ạ. Chẳng sao hết.
- Lớp này bà ở cho nhà ai?
- Chẳng ở với nhà ai.
- Thế lại đi buôn à?
- Vốn đâu mà đi buôn? Với lại có vốn cũng không đi được. Người nhọc lắm.
- Thế thì lấy gì làm ăn?
- Chỉ nhịn thôi chứ lấy gì mà ăn!
Cái đĩ ngượng quá, duỗi cổ ra, trợn mắt, nuốt vội mấy miếng cơm còn lại như một con gà con nuốt nhái. Rồi nó buông bát đũa. Bà bảo cháu:
- Ăn nữa đi, con ạ. Nồi còn cơm đấy. Đưa bát bà xới cho.
Nó chưa kịp trả lời thì bà phó đã mắng át đi:
- Mặc nó! Nó không ăn nữa! Bà ăn bằng nào cho đủ thì cứ ăn!
[...] Ừ, thì bà ăn nốt vậy! Bà cạo cái nồi sồn sột. Bà trộn mắm. Bà rấm nốt. Ái chà! Bây giờ thì bà no. Bà bỗng nhận ra rằng bà no quá. Bụng bà tưng tức. Bà nới thắt lưng ra một chút cho dễ thở. Bà tựa lưng vào vách để thở cho thoả thích. Mồ hôi bà toát ra đầm đìa. Bà nhọc lắm. Ruột gan bà xộn xạo. Bà muốn lăn kềnh ra nghỉ, nhưng sợ người ta cười, cố gượng. Ôi chao! Già yếu thì khổ thật. Đói cũng khổ mà no cũng khổ. Chưa ăn thì người rời rã. Ăn rồi thì có phần còn nhọc hơn chưa ăn. Ôi chao!…
Xế chiều hôm ấy, bà lão mới ra về được. Bà bảo: về muộn cho đỡ nắng. Thật ra thì bà tức bụng, không đi nổi. Mà bà uống nhiều nước quá. Uống bằng nào cũng không đã khát. Bà chỉ càng thêm tức bụng. Đêm hôm ấy, bà lăn lóc rất lâu không ngủ được. Bà vần cái bụng, bà quay vào lại quay ra. Bụng bà kêu ong óc như một cái lọ nước. Nó thẳng căng. Bà thở ì ạch. Vào khoảng nửa đêm, bà thấy hơi đau bụng. Cơn đau cứ rõ thêm, cứ tăng dần. Chỉ một lúc sau, bà đã thấy đau quắn quéo, đau cuống cuồng. Rồi bà thổ. Rồi bà tả. Ôi chao! Ăn thật thì không bõ mửa. Bà tối tăm mặt mũi. Đến khi bệnh tả dứt thì bà lại sinh chứng đi lị. Ruột bà đau quằn quặn. Ăn một tí gì cũng đau không chịu được. Luôn nửa tháng trời như vậy. Rồi bà chết. Bà phó Thụ, nghe tin ấy, bảo: “Bà chết no”. Và bà dùng ngay cái chết ấy làm một bài học dạy lũ con gái, con nuôi:
- Chúng mày xem đấy. Người ta đói đến đâu cũng không thể chết nhưng no một bữa là đủ chết. Chúng mày cứ liệu mà ăn tộ vào!…
(MỘT BỮA NO, 1943 - Tuyển tập Nam Cao nhà xuất bản thời đại)
Nam Cao (1915/1917 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri. Ông để lại khối lượng tác phẩm lớn với nhiều thể loại truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, truyện ký như các tác phẩm : 'Lão Hạc', 'Chí Phèo', 'Giăng Sáng',... Ông đề cao tư tưởng con người, quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá 'con người trong con người'
Một bữa no kể về bà lão mất chông sớm, cả đời lao động nuôi con. Những con mất sớm, con dâu chịu tang chồng cũng rời bỏ, để lại bà với đứa cháu gái nhỏ. Hai bà cháu sống nương tựa nhau bảy năm, nhưng khó khăn quá, bà bán cháu gái cho nhà bà Phó làm con nuôi. Bà lâm bệnh, số vốn ít ỏi cũng theo đó mà cạn kiệt, bà phải làm thuê cho nhà người ta nhưng rồi cũng mất việc. Một ngày, bà đến thăm cái đĩ và xin một bữa cơm, nhưng bị bà phó thụ đạp lên lòng tự trọng. Bữa cơm no nhất của bà cũng là bữa cơm cuối cùng trong đời bà. Đoạn trích trên thuộc phần cuối của tác phẩm
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Đoạn trích từ tác phẩm "Một bữa no" của Nam Cao là một minh chứng sắc nét cho phong cách nghệ thuật và nội dung nhân văn sâu sắc của ông. Thông qua hình ảnh bà lão nghèo khổ, Nam Cao không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy bất công, mà còn khơi dậy lòng trắc ẩn và sự thấu hiểu đối với những phận đời khốn khó.
Về nội dung, đoạn trích tập trung miêu tả một bữa ăn tưởng chừng đơn giản nhưng lại là bữa ăn cuối cùng của bà lão. Bữa cơm này không chỉ thỏa mãn cơn đói về thể xác mà còn ẩn chứa sự khắc nghiệt và bi thương của cuộc đời. Bà lão đã trải qua biết bao nhiêu khó khăn, nhọc nhằn, đến mức mà một bữa ăn no cũng trở thành thứ xa xỉ và nguy hiểm. Qua cái chết của bà, Nam Cao phơi bày hiện thực xã hội đầy bất công, nơi mà sự nghèo đói và thiếu thốn không chỉ cướp đi sức khỏe mà còn cả nhân phẩm của con người. Từ đó, tác phẩm đặt ra một câu hỏi lớn về giá trị của cuộc sống và con người trong một xã hội đầy khắc nghiệt.
Về nghệ thuật, Nam Cao sử dụng lối kể chuyện tự nhiên, giản dị nhưng đầy sức nặng. Ngôn ngữ của ông chân thực, gần gũi với đời sống thường nhật, tạo nên một cảm giác chân thực và xúc động. Những đoạn đối thoại giữa bà lão và bà Phó Thụ là minh chứng cho sự tinh tế trong việc khắc họa tâm lý nhân vật. Bà lão hiện lên với tất cả sự cam chịu, nhẫn nhục, nhưng cũng không thiếu sự cay đắng và tủi hổ. Hình ảnh bà lão ăn cơm trong đau đớn và sự châm biếm đầy cay nghiệt của bà Phó Thụ thể hiện sự đối lập giữa hai tầng lớp xã hội: một bên là những người nghèo khổ, khốn cùng; bên kia là những kẻ giàu có, vô cảm và tàn nhẫn.
Ngoài ra, Nam Cao còn sử dụng biện pháp tương phản để làm nổi bật sự đối lập giữa cái đói và cái no, giữa sự sống và cái chết. Cái chết của bà lão không chỉ là hệ quả tất yếu của một xã hội đầy bất công mà còn là lời cảnh tỉnh về sự vô cảm và tàn nhẫn của con người đối với nhau.
Tổng thể, đoạn trích "Một bữa no" của Nam Cao không chỉ thể hiện tài năng nghệ thuật độc đáo mà còn chứa đựng thông điệp nhân văn sâu sắc. Nam Cao đã khắc họa thành công một hiện thực xã hội đầy đau thương, từ đó gợi lên sự đồng cảm và suy ngẫm về giá trị của cuộc sống, nhân phẩm và lòng nhân ái.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |