LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Soạn bài hầu trời

4 trả lời
Hỏi chi tiết
1.053
1
0
Nguyễn Thanh Thảo
01/08/2017 02:28:25
Soạn bài hầu trời của Tản Đà
I. Gợi ý trả lời câu hỏi
Câu 1. Phân tích khổ thơ đầu:
- Câu thơ tác giả đặt vấn đề có vẻ khách quan: Câu chuyện tôi sắp kể “chẳng biết có hay không”. Chắc chắn người nghe thì cho là bịa đặt nhưng tác giả lại khẳng định mình ở trong trạng thái rất bình thường “Chẳng hoảng hốt, không mơ màng” và câu chuyện có vẻ là thật:
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên…
Điệp từ “Thật” kết hợp với hàng loạt dấu cảm khẳng định độ chân thật của câu chuyện của tác giả sắp kể.
Cách vào đề gây được mối nghi vấn để gợi trí tò mò ở người đọc, tạo sự hấp dẫn, muốn được nghe câu chuyện.
Câu 2. Tác giả kể chuyện mình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
- Thi sĩ:
+ Rất cao hứng (Đọc hết văn vần sang văn xuôi; hết văn thiết lí lại văn chơi)
+ Rất đắc ý nên càng đọc càng có cảm xúc, đọc càng hay (văn dài hơn tốt ran cung mây).
- Chư tiên nghe thơ rất tán thưởng, hâm mộ (chú ý sự bộc lộ đa dạng cảm xúc qua các từ: nở dạ, lè lưỡi, chau đôi mày, lắng tai đứng, ao ước, tranh nhau dặng…)
- Trời đánh giá cao và không tiếc lời tán dương (khen hay, phê “văn thật tuyệt) nhất là đoạn thơ:
Nhời văn chuốt đẹp như sao bang!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Nghệ thuật so sánh làm nổi bật vẻ đẹp từ ngôn ngữ thơ đến chí khí, tâm hồn của thi sĩ. Mỗi dấu cảm là một sự thán phục.
• Cảm nhận về cá tính, tâm hồn thi sĩ Tản Đà qua đoạn thơ:
- Một con người có cá tính rất “ngôn”: ở cõi trần thân phận nhà văn bị khinh bị, xem thường, văn chương “rẻ như bèo”, Tản Đà tìm đến tận Trời để khẳng định tài năng của mình.
- Một con người có ý thức về cá nhân rất cao, dám tự mình khen mình (Trời và Chư tiên tán thưởng thơ Tản Đà, đó chính là nhà thơ tự tán thưởng). Đây không phải là sự tự kiêu, thiếu khiêm tốn trong cái nhìn vốn khiêm cung của xã hội Việt Nam thời phong kiến. Nhưng đây, chính là cái thật, là cá nhân ý thức được tài năng thực sự của mình (Tản Đà giống Nguyễn Công Trứ có cái “ngông” này).
- Giọng kể hào hứng, phấn chấn, tự hào.
Câu 3. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thi sĩ Tản Đà kể cho Trời nghe về tình cảm khốn khó của kẻ theo đuổi nghề văn trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc bấy giờ:
- Không tấc đất cắm dùi.
- Văn chương bị rẻ rung.
- Làm chẳng đủ ăn.
- Bị o ép đủ điều.
Chi chiết chân thực, liệt kê hàng loạt nỗi cơ cục, tủi hổ của chính cuộc đời mình và cuộc đời của nhiều nhà văn khác. (Tản Đà là một thi sĩ nổi tiếng mà suốt đời vẫn phải sống trong cảnh nghèo. Cuối đời ông đã từng phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng không có khách. Ông chết trong thảm cảnh nghèo đói, nhà cửa bị chủ nợ tịch biên. Những chi tiết này giúp ta hiểu thêm tính hiện thực trong những lời Tản Đà giải bày cùng với Trời. Không chỉ có Tản Đà nghèo khổ, thời đó Xuân Diệu cũng than thở:
Nỗi cơ cực đang giơ vuốt
Cơm áo không đùa với khách thơ.
Nam Cao cũng vậy, khi thất nghiệp, viết văn không đủ sống, ông phải nhờ vợ con…
Câu 4. Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ.
- Thể thơ: thể thất ngôn trường thiên tự do, không bị trói buộc bởi khuôn mẫu nào.
- Ngôn từ: hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
- Cách biểu hiện cảm xúc: tự do, phóng túng.
Dưới ngòi bút của tác giả, Trời và Chư tiên không có một chút gì đạo mạo, ngược lại các đấng siêu nhiên đó cũng có cách bộ lộ cảm xúc rất ngộ nghĩnh, bình dân (lè lưỡi, chau mày, tranh nhau dặn…)
II. Luyện tập
Câu 1. Trong bài Hầu Trời, có nhiều câu thơ Tản Đà công khai nói về tài năng của mình:
- Văn dài hơi tốt ran cung mây
Trời nghe, trời cũng lấy làm hay
Văn đã giàu thay, lại lắm lối
Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!”
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao bang!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Khoe tài với những người thực sự có tài không phải là hiếm. Hồ Xuân Hương cũng khoe tài qua câu thơ:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Nguyễn Công Trứ khẳng định “Ông Hi Văn tài bộ…” nhưng có lẽ nói trắng ra cái hay, cái tuyệt của thơ văn mình như Tản Đà không phải ai cũng dám. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ phát triển rất cao. Tạo ra tình huống “Hầu Trời” nhà thơ đã chọn được một cách phôi bày tài năng của bản thân thật độc đáo, thuyết phục. Ở hạ giới “Văn chương rẻ như bèo” không thể có tri âm tri kỉ, vậy thì khoe tài cũng chẳng ý nghĩa gì.
Nhà thơ chỉ cao hứng khoe tài với Trời mà thôi. Trời đã khen chứng tỏ ông có tài thực sự. Đó là một cách tự khẳng định rất “ngông” của thi sĩ.
1. “Ngông” chỉ sự khác thường. “Ngông” trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. (Trong văn chương người ta hay nhắc đến cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tuân, Tản Đà…)
- Cái “Ngông” của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm:
+ Tự cho mình văn hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng.
+ Không thấy ai đáng là tri âm với mình ngoài Trời và Chư tiên.
+ Xem mình là một “trích tiên” bị “đày xuống hạ giới vì tội ngông”
+ Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành “Thiên lương”, một sứ mệnh cao cả.
+ Xem các đấng siêu nhiên là tri âm, bình dân….

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Tô Hương Liên
05/04/2018 17:08:13

Soạn bài: Hầu trời

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

   - Tản Đà (1889 -1939) tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, quê ở làng Khê Thượng, huyện bất Đạt, tỉnh Sơn Tây (nay Ba Vì, Hà Nội). Ông sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời, Hán học đã tàn mà Tây học cũng mới bắt đầu, nên con người ông, kể cả học vấn, lối sống và sự nghiệp văn chương đều mang dấu ấn “người của hai thế kỉ” (Hoài Thanh).

   - Vào những năm 20 của thế kỉ XX, tên tuổi Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng trên thi đàn. Các tác phẩm chính của Tản Đà: Khối tình con I, II (thơ – 1916, 1918), Giấc mộng con I, II (truyện phiêu lưu viễn tưởng – 1916, 1932), Khối tình vản chính, Khối tình bản phụ (luận thuyết – 1918), Còn chơi (thơ và văn xuôi – 19210, Thơ Tản Đà (1925),Giấc mộng lớn (tự truyện – 1928),...

   - Phong cách thơ: Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, vừa ngông nghênh, vừa cảm thương, vừa ưu ái,..Thơ văn ông có thể xem như là một ghạch nối giữa hai thời đại văn học của dân tộc: trung đại và hiện đại.

2. Tác phẩm: bài Hầu trời in trong tập Còn chơi, xuất bản lần đầu năm 1921.

Đọc hiểu văn bản

Câu 1 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Phân tích khổ đầu:

   - Thời gian: đêm qua

   - Không gian: Tĩnh lăng, yên tĩnh.

   - Điệp từ “thật”.

   - Câu cảm thán: Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể .

→ Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng, bất ngờ.

=> Bốn câu thơ đầu là câu chuyện kể lại về một giấc mơ được lên cõi tiên.

Cách vào đề của bài thơ gây được một mối nghi vấn, gợi trí tò mò cho người đọc. Cách vào chuyện như vậy vừa độc đáo, vừa có duyên là cho câu chuyện mà tác giả sắp kể trở nên lôi cuốn, hấp dẫn.

Câu 2 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

   - Thái độ của tác giả khi đọc thơ cho trời và chư tiên: thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc:

       Đọc hết văn vần lại văn xuôi

       Hết văn lý thuyết lại văn chơi

   - Thi nhân kể tường tận, chi tiết về những tác phẩm của mình:

       Hai quyển khối tình văn lí thuyết

       Hai khối tình con là văn chơi

       Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết

    - Chư tiên nghe thơ xúc động, ngưỡng mộ tài năng của tác giả:

       Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

       Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

       Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng

       Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay

   - Thái độ của Trời khen rất nhiệt thành:

       Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

       Văn trần được thế chắc có ít!

       Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!

       .....

   - Đoạn thơ thể hiện rất rõ cá tính của thi sĩ. Tản Đà đã ý thức rất rõ về tài năng của mình và cũng rất táo bạo, bộc lộ “cái tôi” đó. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng. Đây cũng là niềm khát khao trân thành trong lòng thi sĩ. Bởi giữa chốn hạ giới, văn chương lúc này không được coi trọng, “giá rẻ như bèo” nên Tản Đà chỉ còn biết lên tận trời để than vãn, để khẳng định và bộc lộ tài năng của bản thân.

   - Giọng đọc: Hóm hỉnh, ngông nghênh và có phần tự đắc.

Câu 3 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

   Đoạn thơ rất hiện thực trong bài:

       Bẩm trời, cảnh con thực nghèo khó

       Trần gian thước đất cũng không có

       [...]

       Sức trong non yếu ngoài che rấp

       Một cây che chống bốn năm chiều.

Đoạn thơ nói lên một bức tranh chân thực về chính cuộc đời nhà thơ và của những văn sĩ khác lúc đó. Đó là cuộc sống cơ cực, vất vả, nghèo khó, làm chẳng đủ ăn... Bởi vậy dễ hiểu vì sao ông tìm lên đến tận trời để than vãn, để thỏa niềm khao khát, ước mơ của mình.

Là nhà văn giàu cảm hứng lãng mạn nhưng ông vẫn không thoát li khỏi cuộc đời, vẫn khao khát được khẳng định tài năng của mình. Hai cảm hứng này đan cài khăng khít và không tách biệt trong sáng tác của nhà văn.

Câu 4 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Đặc sắc về nghệ thuật

   - Thể loại: thể thơ thất ngôn trường thiên tự do.

   - Ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế, rất gần với đời thường.

   - Cách kể chuyện hóm hỉnh, lôi cuốn người đọc.

   - Cảm xúc bộc lộ tự nhiên, phóng túng, tự do.

Luyện tập

Câu 1 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

Cảm nhận về câu thơ mà mình thích nhất để thấy được phong cách thơ của Tản Đà.

Câu 2 (trang 17 sgk Ngữ Văn 11 Tập 2):

“Ngông” trong văn chương chỉ sự khác thường. Đó là phản ứng của những người nghệ sĩ tài hoa, cá tính, không chịu trói mình trong khuôn khổ chật hẹp, sống phóng túng, tự do, khẳng định cá tính và bản lĩnh của mình.

Cái “ngông” của thi sĩ Tản đà trong bài thơ được biểu hiện qua:

   - Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài tài năng của mình: tự cho mình văn hay đến mức trời và chư tiên cũng phải tán thưởng...

   - Xem mình là một trích tiên bị đày xuống vì tội ngông.

   - Nhận mình là người nhà trời, được sai xuống để thực hiện sứ mệnh cao cả...

0
0
Phạm Văn Phú
05/04/2018 17:08:14

Soạn bài: Hầu trời (Tản Đà)

Bố cục: 3 phần

- Phần 1 (từ "đêm qua ... lạ lùng"): giới thiệu về câu truyện.

- Phần 2 ("chủ tiên ... chợ trời"): thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

- Phần 3 ("Trời lại phê cho ... sương tuyết"): thi nhân trò chuyện với trời.

Câu 1:

- Câu thơ tác giả đặt vấn đề có vẻ khách quan: Câu chuyện tôi sắp kể "chẳng biết có hay không". Chắc chắn người nghe thì cho là bịa đặt nhưng tác giả lại khẳng định mình ở trong trạng thái rất bình thường "Chẳng hoảng hốt, không mơ màng" và câu chuyện có vẻ là thật:

 Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên - sướng lạ lùng. 

Điệp từ "Thật" kết hợp với hàng loạt dấu cảm khẳng định độ chân thật của câu chuyện của tác giả sắp kể.

Cách vào đề gây được mối nghi vấn để gợi trí tò mò ở người đọc, tạo sự hấp dẫn, muốn được nghe câu chuyện.

Câu 2:

* Thái độ của thi nhân khi đọc thơ:

- Thi nhân đọc thơ một cách cao hứng và có phần tự đắc, kể tường tận từng chi tiết về các tác phẩm của mình.

- Giọng đọc thơ của thi nhân vừa truyền cảm, vừa hóm hỉnh, vừa sảng khoái, cuốn hút người nghe.

=> Tản Đà là một người rất "ngông" khi dám lên Trời để khẳng định tài năng thơ văn của mình. Bởi lẽ, Tản Đà là một nhà thơ biết ý thức về tài năng và thơ văn của mình, dám đường hoàng bộc lộ cái "TÔI" cá thể của mình. Tản Đà trong văn chương thường biểu hiện thái độ phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, có tâm hồn không muốn chấp nhận sự bằng phẳng, sự đơn điệu, nên thường tự đề cao, phóng đại cá tính của mình. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ.

* Thái độ của người nghe thơ:

- Thái độ của Trời:

 + "Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay". + "Văn thật tuyệt! ..." + "Nhời văn chuốt đẹp như sao băng    Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!    Êm như gió thoảng, tinh như sương" ... 

=> Trời tỏ thái độ thật tâm đắc khi nghe thơ và cất lời khen rất nhiệt thành.

- Thái độ của Chư Tiên:

 Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay. 

=> Chư Tiên nghe thơ của thi nhân một cách xúc động, tán thưởng và hâm mộ.

Tóm lại, Thái độ của Trời và Chư Tiên khi nghe thơ đã tỏ ra rất thích thú và ngưỡng mộ tài năng thơ ca của thi nhân.

Câu 3: Đoạn thơ thể hiện cảm hứng hiện thực:

 "Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó  ... Biết làm có được mà dám theo". 

=> Kể cho trời nghe cảnh mình ở hạ giới: một cảnh sống nghèo khó, vất vả đủ điều của kiếp nhà văn.

- Ý nghĩa đoạn thơ:

    + Đoạn thơ là bức tranh hiện thực về chính cuộc đời tác giả, cũng như bao nhà văn khác.

    + Tiếp sau đoạn thơ là tâm trạng tác giả, càng khiến người đọc ngậm ngùi trước cuộc sống cơ cực của một lớp nhà văn trong chế độ cũ.

Câu 4: Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ.

- Thể thơ: thể thất ngôn trường thiên tự do, không bị trói buộc bởi khuôn mẫu nào.

- Ngôn từ: hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.

- Cách biểu hiện cảm xúc: tự do, phóng túng.

Dưới ngòi bút của tác giả, Trời và Chư tiên không có một chút gì đạo mạo, ngược lại các đấng siêu nhiên đó cũng có cách bộ lộ cảm xúc rất ngộ nghĩnh, bình dân (lè lưỡi, chau mày, tranh nhau dặn, ...)

II. Luyện tập

Câu 1:

Tùy theo cảm nhận và tình cảm cá nhân mà học sinh có thể lựa chọn những câu thơ, ý tưởng thơ thú vị. Có thể tham khảo một số câu thơ, ý tưởng sau: "Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới vì tội ngông". "Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:/ "Anh gánh lên đây bán chợ Trời" ...

Câu 2: "Ngông" chỉ sự khác thường. "Ngông" trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. (Trong văn chương người ta hay nhắc đến cái "ngông" của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tuân, Tản Đà, ...)

- Cái "Ngông" của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm:

    + Tự cho mình văn hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng.

    + Không thấy ai đáng là tri âm với mình ngoài Trời và Chư tiên.

    + Xem mình là một "trích tiên" bị "đày xuống hạ giới vì tội ngông".

    + Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành "Thiên lương", một sứ mệnh cao cả.

    + Xem các đấng siêu nhiên là tri âm, bình dân, ... .

0
0
Phạm Văn Bắc
07/04/2018 11:22:58

Soạn bài: Hầu trời (Tản Đà)

Bố cục: 3 phần

- Phần 1 (từ "đêm qua ... lạ lùng"): giới thiệu về câu truyện.

- Phần 2 ("chủ tiên ... chợ trời"): thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.

- Phần 3 ("Trời lại phê cho ... sương tuyết"): thi nhân trò chuyện với trời.

Câu 1:

- Câu thơ tác giả đặt vấn đề có vẻ khách quan: Câu chuyện tôi sắp kể "chẳng biết có hay không". Chắc chắn người nghe thì cho là bịa đặt nhưng tác giả lại khẳng định mình ở trong trạng thái rất bình thường "Chẳng hoảng hốt, không mơ màng" và câu chuyện có vẻ là thật:

 Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể! Thật được lên tiên - sướng lạ lùng. 

Điệp từ "Thật" kết hợp với hàng loạt dấu cảm khẳng định độ chân thật của câu chuyện của tác giả sắp kể.

Cách vào đề gây được mối nghi vấn để gợi trí tò mò ở người đọc, tạo sự hấp dẫn, muốn được nghe câu chuyện.

Câu 2:

* Thái độ của thi nhân khi đọc thơ:

- Thi nhân đọc thơ một cách cao hứng và có phần tự đắc, kể tường tận từng chi tiết về các tác phẩm của mình.

- Giọng đọc thơ của thi nhân vừa truyền cảm, vừa hóm hỉnh, vừa sảng khoái, cuốn hút người nghe.

=> Tản Đà là một người rất "ngông" khi dám lên Trời để khẳng định tài năng thơ văn của mình. Bởi lẽ, Tản Đà là một nhà thơ biết ý thức về tài năng và thơ văn của mình, dám đường hoàng bộc lộ cái "TÔI" cá thể của mình. Tản Đà trong văn chương thường biểu hiện thái độ phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, có tâm hồn không muốn chấp nhận sự bằng phẳng, sự đơn điệu, nên thường tự đề cao, phóng đại cá tính của mình. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ.

* Thái độ của người nghe thơ:

- Thái độ của Trời:

 + "Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay". + "Văn thật tuyệt! ..." + "Nhời văn chuốt đẹp như sao băng    Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!    Êm như gió thoảng, tinh như sương" ... 

=> Trời tỏ thái độ thật tâm đắc khi nghe thơ và cất lời khen rất nhiệt thành.

- Thái độ của Chư Tiên:

 Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay. 

=> Chư Tiên nghe thơ của thi nhân một cách xúc động, tán thưởng và hâm mộ.

Tóm lại, Thái độ của Trời và Chư Tiên khi nghe thơ đã tỏ ra rất thích thú và ngưỡng mộ tài năng thơ ca của thi nhân.

Câu 3: Đoạn thơ thể hiện cảm hứng hiện thực:

 "Bẩm trời cảnh con thực nghèo khó  ... Biết làm có được mà dám theo". 

=> Kể cho trời nghe cảnh mình ở hạ giới: một cảnh sống nghèo khó, vất vả đủ điều của kiếp nhà văn.

- Ý nghĩa đoạn thơ:

    + Đoạn thơ là bức tranh hiện thực về chính cuộc đời tác giả, cũng như bao nhà văn khác.

    + Tiếp sau đoạn thơ là tâm trạng tác giả, càng khiến người đọc ngậm ngùi trước cuộc sống cơ cực của một lớp nhà văn trong chế độ cũ.

Câu 4: Những cái mới và hay về nghệ thuật của bài thơ.

- Thể thơ: thể thất ngôn trường thiên tự do, không bị trói buộc bởi khuôn mẫu nào.

- Ngôn từ: hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.

- Cách biểu hiện cảm xúc: tự do, phóng túng.

Dưới ngòi bút của tác giả, Trời và Chư tiên không có một chút gì đạo mạo, ngược lại các đấng siêu nhiên đó cũng có cách bộ lộ cảm xúc rất ngộ nghĩnh, bình dân (lè lưỡi, chau mày, tranh nhau dặn, ...)

II. Luyện tập

Câu 1:

Tùy theo cảm nhận và tình cảm cá nhân mà học sinh có thể lựa chọn những câu thơ, ý tưởng thơ thú vị. Có thể tham khảo một số câu thơ, ý tưởng sau: "Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới vì tội ngông". "Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:/ "Anh gánh lên đây bán chợ Trời" ...

Câu 2: "Ngông" chỉ sự khác thường. "Ngông" trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. (Trong văn chương người ta hay nhắc đến cái "ngông" của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tuân, Tản Đà, ...)

- Cái "Ngông" của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm:

    + Tự cho mình văn hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng.

    + Không thấy ai đáng là tri âm với mình ngoài Trời và Chư tiên.

    + Xem mình là một "trích tiên" bị "đày xuống hạ giới vì tội ngông".

    + Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành "Thiên lương", một sứ mệnh cao cả.

    + Xem các đấng siêu nhiên là tri âm, bình dân, ... .

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư