Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Viết bài văn 400 chữ phân tích đánh giá những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ mùa xuân chín ( từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ)

viết bài văn 400 chữ phân tích đánh giá những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ mùa xuân chín ( từ ngữ ,hình ảnh ,biện pháp tu từ)
2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
80
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
**Phân tích đánh giá những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ "Mùa xuân chín"**

Bài thơ "Mùa xuân chín" của nhà thơ Hữu Thịnh là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước và con người. Tác phẩm không chỉ gây ấn tượng bởi nội dung sâu sắc mà còn bởi những đặc sắc nghệ thuật vượt trội, thể hiện qua từ ngữ, hình ảnh và biện pháp tu từ.

Trước hết, từ ngữ trong bài thơ được sử dụng rất tinh tế và sinh động. Những từ ngữ miêu tả thiên nhiên, như "hoa", "cỏ", "chim", "gió", tạo nên một bức tranh muôn màu của mùa xuân. Tác giả không chỉ đơn thuần bộc lộ cảm xúc mà còn khéo léo lồng ghép những ý nghĩa sâu xa. Các từ ngữ gợi cảm xúc hòa quyện giữa con người và thiên nhiên, tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa tâm hồn người và vẻ đẹp của đất trời.

Về hình ảnh, Hữu Thịnh đã xây dựng những hình ảnh thật sống động và tươi mới. Những hình ảnh cụ thể như "bầu trời xanh thẳm", "cành hoa rực rỡ" hay "tiếng chim hót véo von" không chỉ mang lại cảm giác khoan khoái, vui tươi mà còn khắc họa rõ nét vẻ đẹp của mùa xuân. Hình ảnh mùa xuân ở đây không chỉ là thời điểm trong năm mà còn biểu trưng cho sức sống, sự hồi sinh và hy vọng. Sự giao thoa giữa thiên nhiên và con người thể hiện một triết lý sống lạc quan, yêu đời.

Bên cạnh đó, biện pháp tu từ được sử dụng một cách khéo léo, điển hình là biện pháp nhân hóa và so sánh. Việc nhân hóa các yếu tố thiên nhiên như "nghe gió hát", "mùa xuân thì thầm" tạo nên sự gần gũi, thân thuộc, làm cho người đọc cảm nhận được sự sống động của cảnh vật. Ngoài ra, biện pháp so sánh cũng được áp dụng để làm nổi bật vẻ đẹp của mùa xuân, khiến cho người đọc không chỉ nhìn thấy mà còn cảm nhận được sự tươi đẹp, sức sống mãnh liệt của thiên nhiên.

Tóm lại, "Mùa xuân chín" không chỉ là một bài thơ tả cảnh mà còn là tiếng lòng của người yêu thiên nhiên, đất nước. Những đặc sắc nghệ thuật trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh và biện pháp tu từ đã khiến bài thơ trở nên sinh động, đẹp đẽ, làm nổi bật vẻ đẹp của mùa xuân cùng những khát khao sống mãnh liệt của con người. Bài thơ không chỉ là một bản tình ca của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của hy vọng và niềm tin vào tương lai.
0
0
16/10 19:57:05
Phân tích bài thơ "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử

"Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử là một bức tranh xuân tươi tắn, rực rỡ mà cũng đầy chất thơ, gợi lên bao cảm xúc trong lòng người đọc. Bài thơ nổi bật với những đặc sắc về từ ngữ, hình ảnh và biện pháp tu từ.

Về mặt từ ngữ:

  • Từ ngữ bình dị, gần gũi: Hàn Mặc Tử đã sử dụng những từ ngữ giản dị, gần gũi với đời sống thường ngày như "làn nắng ửng", "mái nhà tranh", "giàn thiên lý",... Những từ ngữ này tạo nên một không gian quen thuộc, ấm áp.
  • Từ ngữ giàu tính gợi hình: Bên cạnh đó, nhà thơ còn sử dụng những từ ngữ giàu tính gợi hình như "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời", "tiếng hát vắt vẻo",... Những từ ngữ này giúp người đọc hình dung rõ nét hơn về bức tranh mùa xuân.
  • Từ ngữ biểu cảm: Các từ ngữ như "say mê", "nao nức", "bâng khuâng",... thể hiện rõ tâm trạng của nhà thơ trước vẻ đẹp của mùa xuân.

Về mặt hình ảnh:

  • Hình ảnh mùa xuân tươi đẹp: Bài thơ vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp với những hình ảnh quen thuộc như "làn nắng ửng", "mái nhà tranh", "giàn thiên lý", "sóng cỏ xanh tươi",... Tất cả tạo nên một không gian sống động, tràn đầy sức sống.
  • Hình ảnh đối lập: Hình ảnh "dọc bờ sông trắng nắng chang chang" đối lập với "mái nhà tranh", tạo nên một bức tranh hài hòa, cân đối.
  • Hình ảnh chuyển động: Hình ảnh "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời", "tiếng hát vắt vẻo" gợi cảm giác chuyển động, tạo nên một không gian sinh động.

Về mặt biện pháp tu từ:

  • So sánh: Nhà thơ đã sử dụng biện pháp so sánh để làm nổi bật vẻ đẹp của mùa xuân. Ví dụ: "Nắng trải trên đồng vàng óng ả/ Như một tấm thảm khổng lồ".
  • Nhân hóa: Nhà thơ đã nhân hóa những sự vật để chúng trở nên gần gũi, sinh động hơn. Ví dụ: "Gió sột soạt trêu tà áo biếc".
  • Ẩn dụ: Hình ảnh "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời" là một ẩn dụ đẹp, gợi tả sự rộng lớn, mênh mông của không gian.

Đánh giá:

"Mùa xuân chín" là một bài thơ thành công về cả hình thức và nội dung. Bằng việc sử dụng tài tình những biện pháp nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, sống động. Bài thơ không chỉ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn thể hiện tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với quê hương. Đồng thời, bài thơ cũng gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc bâng khuâng, man mác trước vẻ đẹp của cuộc sống.

Kết luận:

"Mùa xuân chín" là một bài thơ hay, đáng để đọc và ngẫm nghĩ. Bài thơ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bởi vẻ đẹp tinh tế, giàu cảm xúc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
bngocc_đz
16/10 19:57:23
+4đ tặng

Khi nhắc đến Hàn Mặc Tử, nhà thơ Chế Lan Viên từng nói rằng: "Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa, rực rỡ của mình". Ông đã để lại cho thơ ca Việt Nam rất nhiều bài thơ hay và ý nghĩa. Hồn thơ Hàn Mặc Tử được coi là hồn thơ "điên" cất lên từ số phận bất hạnh với những ám ảnh về "trăng" và "máu". Nhưng trong tác phẩm "Mùa xuân chín", thi nhân đã đem đến cho người đọc những cảm nhận về bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống. Từ đó, thể hiện tình yêu thiên nhiên, khát khao giao cảm với đời, với người mãnh liệt của ông.

Ngay từ nhan đề bài thơ đã gợi ra vẻ đẹp mùa xuân rực rỡ, tròn đầy. Động từ trạng thái "chín" kết hợp với danh từ "mùa xuân" gợi cho ta liên tưởng về một mùa xuân đang vào giai đoạn đẹp nhất, căng tràn sức sống nhất. Đồng thời, bộc lộ sự tiếc nuối của thi nhân trước cái đẹp không thể níu giữ, kéo dài vĩnh viễn. Mạch cảm xúc của nhân vật trữ tình đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh.

Mạch thơ được triển khai thông qua hệ thống hình ảnh, các biện pháp tu từ, sự phối hợp nhịp và vần trong toàn bộ bài thơ. Có thể thấy, nhân vật trữ tình vừa hòa mình với thiên nhiên, trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, vừa có những phút giây thoát li khỏi thực tại để trắc ẩn, ưu tư. Vì thế, giọng điệu bài thơ cũng được biến chuyển liên tục để phù hợp với tâm trạng của nhân vật trữ tình. Khi thì tha thiết, say sưa khi thì bị ngưng lại, tạo sự lắng đọng trong cảm xúc.

Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ miêu tả thông qua hai hình tượng chính là hình tượng thiên nhiên và hình tượng con người trong mùa xuân. Vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy nhựa sống được khắc họa thông qua một loạt các hình ảnh thơ gợi hình, gợi cảm: "làn nắng ửng", "khói mơ tan", "bóng xuân sang", "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời". Hình ảnh "làn nắng ửng" cho ta hình dung về màu vàng nhạt của nắng. Đó là màu của nắng sớm mới lên đầy trong trẻo chứ không phải cái nắng gay gắt chói chang của ngày hè hay cái nắng vàng hanh của mùa đông. Trong khi đó "khói mơ tan" lại đem đến hai cách hiểu: khói phát ra từ những căn bếp trong buổi sáng sớm hoặc cũng có thể là làn sương khói tinh mơ. "Làn nắng ửng" kết hợp với "khói mơ tan" tạo cảm giác sương khói đang dần tan biến để nhường chỗ cho nắng mới lên. Đôi mái nhà tranh được nắng ửng nhuộm vàng để lại ấn tượng về một vùng quê thanh vắng, yên bình trong buổi sớm ban mai. Câu thơ "sột soạt gió trêu tà áo biếc" với biện pháp đảo ngữ và từ láy "sột soạt" vừa diễn tả được âm thanh vừa nhấn mạnh được sự trêu đùa, tình tứ của gió khiến tà áo biếc nhẹ bay. Mùa xuân của tự nhiên đã được hữu hình hóa thông qua biện pháp tu từ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác trong câu thơ "Trên giàn thiên lí bóng xuân sang". Tác giả đã ngăn cách câu thơ bằng dấu chấm nhằm tạo nhịp điệu thơ cũng như nhấn mạnh vào dấu ấn của mùa xuân. Sự thay đổi nhịp thơ từ 2/2/3 sang 4/3 một cách linh hoạt và cách gieo vần "vàng" - "sang", "trời" - "chơi" đã mở ra không gian mùa xuân bao la rộng lớn. Trong không gian ấy còn xuất hiện hình ảnh "Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời". Câu thơ không chỉ miêu tả được sắc xanh, mật độ của cỏ mà còn gợi ra được chuyển động của cỏ theo làn gió khiến mùa xuân ngập tràn khắp không gian. Ngôn từ của bài thơ đã gợi lên khung cảnh mùa xuân đang vào giai đoạn rực rỡ và tràn đầy sức sống nhất.

Trong khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp ấy, nổi bật hình ảnh con người đang độ tuổi xuân. Hình ảnh thơ giàu sức gợi: "bao cô thôn nữ", "đám xuân xanh", "tiếng ca vắt vẻo", "ai ngồi dưới trúc", "khách xa", "chị ấy" khiến chúng ta hình dung về sự xuất hiện của con người. Hình ảnh "bao cô thôn nữ hát trên đồi" vừa diễn tả được đối tượng vừa miêu tả được hành động và nơi chốn cụ thể. Câu thơ "- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi" bỗng chốc trở thành lời nói trực tiếp thông qua dấu gạch ngang, kết hợp với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3, ý thơ bộc lộ sự tiếc nuối tuổi xuân của người con gái ngay khi đang ở trong mùa xuân. "Tiếng ca" được nhân hóa thông qua từ láy "vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thĩ" tạo ra sự trầm bổng khác nhau, lúc thì nhỏ nhẹ, tha thiết, khi thì dồn dập, gấp gáp. Trong khung cảnh mùa xuân, con người hiện lên với tiếng hát trong trẻo.

Trái ngược với sự tươi vui, rộn rã của bức tranh thiên nhiên mùa xuân, khổ thơ cuối đã có sự chùng xuống về mặt cảm xúc của nhân vật trữ tình. Nhân vật trữ tình được khắc họa thông qua hình ảnh "khách xa". "Khách xa" ở đây có thể hiểu là khách từ phương xa đến làng hoặc cũng có thể là nhà thơ ẩn mình dưới vai trò của một vị khách để diễn tả hoàn cảnh của bản thân. Người khách gặp đúng lúc mùa xuân chín mà lòng, trí nhớ về quê hương. Từ láy "bâng khuâng" gợi ra cảm giác buồn man mác, lửng lơ, vô định kết hợp với từ "sực" càng cho ta cảm giác về sự bất chợt, ngay tức khắc. Tại chính thời điểm đó, nỗi nhớ làng quê ngập tràn, dâng trào trong tâm tưởng của thi nhân. Tương tự câu trên, câu thơ " - Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang?" với sự thay đổi trong cách ngắt nhịp từ 2/2/3 sang 4/3 và dấu gạch ngang đầu câu khiến câu thơ trở thành lời nói bộc lộ trực tiếp cảm xúc. Đây là câu hỏi của "khách xa" hay của chính tác giả đang tự hỏi chính mình "liệu năm nay chị ấy có còn gánh thóc dọc bờ sông hay không?". Câu thơ vừa diễn tả được hoạt động "gánh thóc" của đối tượng vừa miêu tả được không gian mùa hè với cái "nắng chang chang". Cách gieo vần "làng" - "chang chang" đã gợi ra sự vang vọng trong cảm xúc, suy nghĩ của nhân vật trữ tình. Khổ thơ đã thể hiện nỗi nhớ quê, khát khao giao cảm với đời, với người mãnh liệt của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Cùng viết về đề tài mùa xuân, Nguyễn Bính thể hiện bức tranh tươi tắn, hồn hậu "chân quê để bày tỏ tình cảm với người con gái thì "Mùa xuân chín" của Hàn Mặc Tử lại diễn tả một mùa xuân tươi tắn, tràn đầy nhằm bộc lộ tiếc nuối và mặc cảm thân phận trước cuộc sống. Cả Nguyễn Bính và Hàn Mặc Tử đều sử dụng hình ảnh thơ gắn liền với các hình ảnh vùng quê. Nhưng điều làm nên dấu ấn của "Mùa xuân chín" chính là cách sử dụng ngôn từ giàu sức gợi, khắc họa nên mùa xuân ở trạng thái tròn đầy nhất.

Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh sống động với đầy đủ màu sắc, đường nét, âm thanh của thiên nhiên, con người trong mùa xuân thông qua biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, so sánh, nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, hệ thống từ láy giàu sức gợi hình, gợi cảm cùng cách ngắt nhịp, gieo vần phá cách. "Mùa xuân chín" bộc lộ khát khao giao cảm với đời, với người của một hồn thơ "điên" đang mang trọng bệnh nhưng vẫn luôn hướng về cuộc sống.

Ngọc Minh
hay quá z bè

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×