Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Qua đó phân tích bài thơ "Chợ đồng" của Nguyễn Khuyến lám sáng tỏ ý kiến trên

Thơ là thơ đồng thời là họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng ( Sóng Hồng) . Em hiểu ý kiến trên như thế nào. Qua đó phân tích bài thơ "Chợ đồng" của Nguyễn Khuyến lám sáng tỏ ý kiến trên
2 trả lời
Hỏi chi tiết
26
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Ý kiến "Thơ là thơ, đồng thời là họa, là nhạc, là chạm khắc theo một cách riêng" của Sóng Hồng gợi mở một khái niệm sâu sắc về nghệ thuật thơ ca. Theo đó, thơ không chỉ là những dòng chữ mộc mạc, mà còn chứa đựng vẻ đẹp của hình ảnh, âm thanh và cảm xúc đa dạng, giống như một tác phẩm nghệ thuật đa phương diện khác. Điều này thể hiện rõ qua bài thơ "Chợ đồng" của Nguyễn Khuyến.

Bài thơ "Chợ đồng" được sáng tác vào cuối thế kỷ 19, khắc họa một bức tranh sinh động về phiên chợ quê, nơi không chỉ diễn ra những giao dịch mua bán mà còn là nơi tụ họp của các mối quan hệ, các con người và cả những nét văn hóa đặc trưng của vùng quê Bắc Bộ Việt Nam.

### Phân tích tác phẩm "Chợ đồng"

1. **Hình ảnh và không gian**:
Bài thơ tạo nên một bức họa sinh động về không gian chợ quê. Những câu thơ đầu tiên đã khắc họa hình ảnh "Chợ phiên họp sắc thắm bừng", làm cho người đọc cảm nhận được sự tươi đẹp và nhộn nhịp của phiên chợ. Những âm thanh của “tiếng rao” hay “tiếng cười” tạo nên một bản nhạc đặc trưng, đầy sức sống của cuộc sống thường nhật.

2. **Âm thanh và nhịp điệu**:
Âm thanh trong bài thơ không chỉ là tiếng ồn ào của chợ búa mà còn là những tiếng rao, những câu chuyện rôm rả của người dân. Nhịp điệu của thơ cũng rất quan trọng, với cách ngắt nhịp và vần điệu tạo nên sự hài hòa, nhịp nhàng như một bài nhạc điệu.

3. **Cảm xúc và tâm tư**:
Qua những hình ảnh và âm thanh của chợ phiên, Nguyễn Khuyến khéo léo đưa vào thơ những tâm tư, nỗi niềm của con người. Bên cạnh cảnh đẹp và sự nhộn nhịp của chợ, còn có sự quyến luyến, nhớ thương về quê hương, về những giá trị văn hóa truyền thống đang dần phai nhạt trong dòng chảy của thời gian.

4. **Chạm khắc các giá trị văn hóa**:
Không chỉ dừng lại ở việc mô tả cảnh vật, bài thơ còn chạm khắc sâu sắc vào những giá trị văn hóa của người dân. Qua các hình ảnh sinh động, tác giả đã thể hiện được tình yêu quê hương, yêu cuộc sống giản dị và những giá trị nhân văn mà phiên chợ mang lại.

### Kết luận

Từ việc phân tích bài thơ "Chợ đồng", chúng ta có thể thấy rằng thơ ca không chỉ đơn thuần là một hình thức nghệ thuật, mà là sự hòa quyện của nhiều yếu tố như hình ảnh (họa), âm thanh (nhạc) và cả những ý nghĩa sâu sắc được chạm khắc trong từng câu từ. Tác phẩm của Nguyễn Khuyến không chỉ mang đến cho người đọc những cảm xúc đơn thuần mà còn là một bức tranh đời sống tràn đầy sắc màu, âm thanh và tâm tư, thực sự làm nổi bật ý kiến của Sóng Hồng về thơ ca.
0
0
Duy Phúc
3 giờ trước
+5đ tặng

Câu nói "Thơ là thơ đồng thời là họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng" (Sóng Hồng) thể hiện quan điểm rằng thơ không chỉ là một hình thức nghệ thuật độc lập mà còn là sự giao thoa giữa nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Thơ có thể mang trong mình vẻ đẹp của hội họa, giai điệu của âm nhạc và sự tinh tế của điêu khắc. Điều này cho thấy thơ có khả năng biểu đạt sâu sắc những cảm xúc, tâm tư và hình ảnh qua từ ngữ, khiến cho người đọc không chỉ cảm nhận bằng lý trí mà còn bằng cảm xúc và thị giác.

Phân Tích Bài Thơ "Chợ Đồng" của Nguyễn Khuyến

Bài thơ "Chợ Đồng" của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện sự giao thoa giữa thơ và các loại hình nghệ thuật khác.

Bài thơ mở ra với hình ảnh chợ Đồng nhộn nhịp, sôi động. Câu thơ mô tả không khí tấp nập của phiên chợ, các sắc màu của hàng hóa và người mua, người bán. Hình ảnh thơ ở đây không chỉ đơn thuần là miêu tả mà còn gợi lên một bức tranh sinh động, gần gũi với cuộc sống:

"Chợ làng chiều tối / Người mua kẻ bán rộn ràng..."

Hình ảnh thơ gợi cảm, sống động này giống như một bức tranh hội họa, giúp người đọc cảm nhận được không khí chợ quê.

Nguyễn Khuyến sử dụng âm điệu trong câu thơ một cách hài hòa, tạo nên những vần điệu nhẹ nhàng, du dương. Âm thanh của tiếng nói, tiếng cười, và tiếng rao hàng hòa quyện lại với nhau, tạo nên một bản nhạc chợ quê:

"Người rao: ‘Gà đây, cá đây!’..."

Tiếng rao hàng vang vọng trong không gian, tạo ra một không khí nhộn nhịp, vui tươi, giống như âm nhạc rộn ràng của cuộc sống.

Ngoài việc miêu tả những hình ảnh và âm thanh sống động, bài thơ còn thể hiện những cảm xúc, tâm tư của tác giả về cuộc sống giản dị, gần gũi của người dân quê. Qua đó, Nguyễn Khuyến gửi gắm tình yêu quê hương, sự trân trọng đối với cuộc sống bình dị nhưng đầy ý nghĩa.

Cuối cùng, ngôn ngữ của Nguyễn Khuyến không chỉ đơn thuần là những câu thơ mà còn thể hiện sự tinh tế trong cách chạm khắc những hình ảnh, tình cảm. Tác giả khéo léo sử dụng ngôn từ để khắc họa rõ nét hình ảnh người dân, hàng hóa, và không khí chợ. Qua đó, người đọc có thể "chạm" vào từng chi tiết, cảm nhận được hơi thở của cuộc sống.

Câu nói "Thơ là thơ đồng thời là họa là nhạc là chạm khắc theo một cách riêng" được thể hiện rõ nét qua bài thơ "Chợ Đồng" của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm không chỉ là một bài thơ mà còn là một tác phẩm nghệ thuật tổng hợp, nơi hội họa, âm nhạc, và điêu khắc hòa quyện để tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống và con người. Qua đó, bài thơ mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thật, sâu sắc về quê hương, cuộc sống bình dị mà đẹp đẽ.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Tuyenn Ngo kim
3 giờ trước
+4đ tặng

Xuân Diệu từng nhận xét "Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam". Thật vậy, trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, bên cạnh những tác phẩm trữ tình, trào phúng xuất sắc, Nguyễn Khuyến có một số lượng lớn tác phẩm viết về làng quê. Sau khi cáo quan về quê, nhà thơ đã gắn bó cuộc đời mình với thôn quê nên ông có sự gắn bó, thấu hiểu với mảnh đất quê nhà, bởi vậy mà mỗi cảnh vật thôn quê hiện lên trong thơ Nguyễn Khuyến đều thực sinh động, gần gũi và gợi cảm xúc.

Nguyễn Khuyến sau khi rời chốn quan trường nhiễu nhương, lui về ở ẩn ở quê nhà, đó là làng Vị Hạ, xã Yên Đổ (nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Làng Vị Hạ có chợ họp ở trong làng, gọi là chợ Và. Hàng năm cứ đến phiên chợ cuối tháng Chạp (chợ sắm Tết) nhân dân lại dời chợ ra họp ở một cánh ruộng mạ phía sau làng, nên gọi là chợ Đồng. Từ năm 1949, quân Pháp về đóng đồn ở làng Vị Hạ thì chợ Và cũng thôi không họp nữa, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. cụ Nguyễn Khuyến đã viết nên tác phẩm này nhờ cảm hứng ngôi chợ Và ở làng Vị Hạ quê ông.

Hai câu đầu của bài thơ là lời tác giả đang hỏi một người làng đi chợ phiên về, cũng là đang tự hỏi chính bản thân mình:

"Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,

Năm nay chợ họp có đông không?"

Khi đọc xong hai câu thơ trên chắc chắn người đọc sẽ thắc mắc vì sao ông hỏi thế? "Năm nay" lại là năm nào, có ý nghĩa gì chăng? Nhưng nhìn vào cái ngữ điệu, giọng thơ hơi chùng, lại chậm rãi, ta nghe như có tiếng thở dài trong nỗi trầm ngâm thì có lẽ năm đó không phải là một năm chợ phiên đông vui cho được. Liệu có phải vào năm mà Hà Nam lụt lớn, dân chúng tiêu điều, khổ sở, người ta còn chẳng buồn đoái hoài đến chợ Tết? Tựu chung lại hai câu thơ chất chứa rất nhiều nỗi buồn, đó là nỗi xót xa cho cuộc sống cơ cực, khổ sở của một nhà trí thức có đến hơn nửa đời người gắn bó với từng niềm vui nỗi buồn của người dân nơi làng quê khốn khổ, lầm than.

Tiếp đến là hai câu thơ thực, Nguyến Khuyến lại tiếp tục đặt một câu hỏi ngỏ, thể hiện cái tâm trạng hoang mang, rối bời giữa cảnh cô đơn, vắng lặng của những ngày giáp Tết mà không khí thật đìu hiu, buồn bã.

"Dở trời mưa bụi còn hơi rét,

Uống rượu tường đền được mấy ông?"

Xuân đương đến, nhưng mùa xuân này lại bị bao phủ bởi cái thời tiết ẩm ương, những hạt mưa bụi nhạt nhòa rơi lất phất, tưởng nhẹ hạt nhưng ai đứng giữa trời mưa rồi thì mới biết nó cũng chẳng tầm thường, cũng làm ướt áo người như ai. Thứ mưa bụi hơi đương còn vấn chút gió đông nên "hơi rét", rét cả ngoài da, rét đến trong lòng người. Ngẫm lại nhìn cơn mưa bụi thế có ai còn thấy được sắc đỏ của pháo Tết, người người muốn núp trong nhà, đường được mấy ai, vắng vẻ lắm cho một cái Tết nơi làng nghèo. Thế rồi vẫn có một cụ già, đang tuổi thất thập cổ lai hi, chống cái gậy con lọ mọ ra đường, tìm lại những giá trị văn hóa thật đẹp. Tìm về với những ông bạn già, năm ngoái năm kia còn cùng thử rượu, nhưng buồn làm sao khi chẳng "được mấy ông". Một nhà nho chân chính, vì bất đắc chí mà lui về ở ẩn, cốt lánh sự đời, tìm về niềm vui dân dã, bầu bạn với người cùng trang lứa, nhưng nay còn lại ai, có lẽ đã đi xa hết cả rồi. Lòng thi sĩ thấy thật cô đơn, lẻ loi, một người già cả lại chịu nhiều nỗi đau cả chung cả riêng như thế, quả thật xót xa quá

"Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung."

Thế rồi nhà thơ già bỗng nghe được những âm thanh mới, những tưởng đấy là âm thanh hân hoan, vui mừng khi Tết đến. Nhưng không, âm thanh ấy nghe "xáo xác" lộn xộn lắm, đó là tiếng chủ nợ đòi con nợ, tiếng con nợ khất tiền, lời qua tiếng lại như thế càng làm tăng thêm cái vẻ khổ sở, nghèo túng của người dân nơi chợ Đồng. Ai cũng có nỗi khổ cho riêng mình, kẻ không đòi được tiền thì cay cú, bực dọc, người mắc nợ thì xấu hổ, xót xa. Cứ vậy, ta thấy Tết ở đây chẳng còn là lúc để vui mừng mà là lúc để người ta càng nhận rõ ra cái nghèo khó, cùng cực của những người nông dân xưa, phải chạy vạy từng ngày lo miếng ăn, chứ nói gì đến Tết nhất.

"Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.

Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng."

Thế rồi khi phiên chợ đã vắng hẳn, nhà thơ từ trong nỗi buồn mênh mang, nhẩm tính chỉ còn mấy hôm nữa thì xuân lại tới rồi. Ông quẩn quanh trong một nỗi lo lắng cho cuộc sống cơ cực của nhân dân, khi năm hết tết đến, càng mong cho nhân dân được đón một cái Tết mới được đầm ấm hạnh phúc, chứ chẳng phải cảnh tiêu điều, xáo xác kia. Tiếng pháo nhà ai bỗng nổ "đùng", đánh thức người trong buồn bã, xót xa, xua đi cái nghèo đói, xua đi cái lạnh lẽo của mưa bụi rét mướt. Nhưng pháo nhà ai, thì không biết nữa, rồi liệu pháo ấy có thật kỳ diệu vậy không, Nguyễn Khuyến không xác định được. Chỉ biết rằng, tiếng pháo đơn độc trong không gian những ngày cuối năm lại càng làm tăng thêm cái nỗi buồn man mác, nỗi cô đơn trong lòng người thi sĩ

Bài thơ thể hiện tâm trạng buồn của Nguyễn Khuyến khi chứng kiến nhịp sống của người dân qua cảnh chơ Đồng. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung. Năm cũ sắp qua, năm mới đang dần đến mà cái cái nghèo, cái túng đói vẫn ám ảnh đời sống dân quê. Nỗi buồn khiến nhà thơ chìm vào suy tư, vậy nên âm thanh của “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng” như khiến nhà thơ giật mình trở về với thực tại

Nguyễn Khuyến mất năm 1909, đúng bốn mươi năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng làng Vị Hạ, càn quét bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đây, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất. Bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến như một tấm bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút pháp điêu luyện. Cái hồn quê, cái tình quê như kết đọng qua âm thanh “xao xác”, qua hình ảnh “nếm rượu tường đền" của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng’’ ... Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê hương.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo