Câu 1.
Dấu hiệu nhận biết thể thơ trong bài thơ:
Dựa trên số câu, số chữ, cách gieo vần và ngắt nhịp của bài thơ để nhận biết thể thơ. Thể thơ thường gặp trong thơ Nguyễn Trãi là thất ngôn bát cú Đường luật hoặc thể lục bát.
Câu 2.
Liệt kê các từ ngữ, hình ảnh miêu tả không gian, thời gian trong bài thơ:
Không gian: Miêu tả qua từ ngữ như "gió khách", "canh tà".
Thời gian: Thường gắn với cảnh chiều tà, đêm khuya, hoặc một khoảnh khắc gợi nỗi buồn.
Câu 3.
Hiệu quả của biện pháp tu từ trong hai câu thơ:
Biện pháp tu từ được sử dụng:
Nhân hóa ("lay gió khách", "điểm canh tà").
Điệp từ ("buồn buồn", "giọt giọt").
Hiệu quả:
Tạo âm điệu nhẹ nhàng, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng của tác giả.
Gợi cảm giác thời gian trôi chậm, không gian tĩnh lặng, cô quạnh, càng làm nổi bật tâm trạng cô đơn của người khách.
Câu 4.
Hình tượng nhân vật khách được khắc họa như thế nào trong bài thơ?
Hình tượng nhân vật khách thường là ẩn dụ cho tác giả, mang tâm trạng phiêu bồng, buồn bã, hoặc hoài cổ.
Qua cách miêu tả cảnh vật, khách là người nhạy cảm, sống nội tâm, luôn cảm nhận sâu sắc sự biến chuyển của thiên nhiên và thời gian.
Câu 5.
So sánh tâm trạng của Nguyễn Trãi và Nguyễn Khuyến qua hai câu thơ cuối trong bài Thính vịnh và Thu vịnh:
Nguyễn Trãi:
Thể hiện tâm trạng ưu tư, buồn bã, trăn trở với dòng thời gian, vận mệnh.
Câu thơ "Ngắm xong, năm chắn ngù, Đến sáng nhật rơi thưa" mang cảm giác cô độc, ám ảnh với sự hữu hạn của đời người.
Nguyễn Khuyến:
Tâm trạng nhẹ nhàng hơn, pha chút hóm hỉnh.
"Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại tình với ông Đào" cho thấy sự thư thái, gần gũi với thiên nhiên và cuộc sống.
=> Điểm khác biệt chính:
Nguyễn Trãi thiên về nỗi niềm sâu lắng, còn Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng và giàu chất trào phúng hơn.