2.1. Sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc:
Trong lịch sử nước Văn Lang thuộc thời Hồng Bàng (?2879 TCN – 258 TCN). Đây là thời kỳ có tính chất nửa lịch sử, nửa thần thoại khi người Việt cổ chưa có chữ viết. Lịch sử chỉ được ghi lại qua miệng. Dựa vào truyền thuyết, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên viết rằng Lộc Tục lên làm vua vùng đất phía nam núi Ngũ Lĩnh (Quảng Đông) vào năm 2879 TCN. Lộc Tục lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Lãnh thổ của Xích Quỷ khá rộng, phía Bắc là núi Ngũ Lĩnh, Nam giáp Hồ Tôn (gọi tắt là vua Chiêm Thành), Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên) và Đông là Nam Hải. Kinh Dương Vương lấy Thần Long, con gái Động Đình cáo, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm lên làm vua thay Kinh Dương Vương, lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Tương truyền, Lạc Long Quân là dòng dõi ngoại mẫu nên thường sống nơi nước động. Khi có vấn đề cần giải quyết, con người thường tìm đến hang nước và kêu lên: “Bố ơi, bố ở đâu? Hãy đến với con”. Thế là Lạc Long Quân liền xông vào giải quyết mọi việc khó khăn cho dân chúng. Lạc Long Quân gặp Âu Cơ và lấy nàng làm vợ. Họ sinh ra một phần trăm con trai (hoặc 100 quả trứng). Một hôm, khi con đã lớn, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ: “Ta là rồng, ở dưới nước, nàng là tiên, ở trên cạn.
Thủy hỏa khắc nhau, không ở được lâu với nhau”. Thế là hai người chia tay. Năm mươi người con ở lại với cha dưới nước. Năm chục người con còn lại theo mẹ sinh sống. Họ đến ở tại Phong Châu (Vĩnh Phú), tôn người con trưởng làm vua, cùng nhau gây dựng cơ nghiệp. Cũng chính từ truyền thuyết này mà người Việt vẫn tin rằng tổ tiên của họ là tiên rồng. Người con cả trở thành thủ lĩnh khai khẩn ruộng đất mới. Đó là Hùng Vương đầu tiên. Mở đầu thời đại mà sử sách gọi là thời đại Hùng Vương. Hùng Vương đặt tên nước là Văn Lang, đóng đô ở Bạch Hạc (Việt Trì, Vĩnh Phú).