Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mùa xuân miền Bắc hình ảnh mưa phùn thơ mộng, trữ tình:
"Phân phất mưa phùn xâm xẩm mày"
Câu thơ đã mở ra một không gian sáng tạo đầy thú vị của nhà thơ. Bằng phép đảo ngữ độc đáo "Phân phất mưa phùn" đã nhấn mạnh cơn mưa phùn kéo dài bao phủ không gian miền Bắc. Sở dĩ mưa phùn là dấu hiệu báo hiệu mùa xuân về, là nét đặc trưng chỉ có mùa xuân ở miền Bắc mới có. Mưa phùn đánh thức cây cối đâm chồi, nảy lộc, muôn hoa bừng tỉnh sau giấc ngủ đông kéo dài.
Chấm phá trên nền bức tranh mưa xuân ấy là hình ảnh con người lao động bình dị, thân thương:
"Mặc manh áo ngắn giục trâu cày
Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó
Bà lão chiều còn xới đậu đây"
Con người xuất hiện với "manh áo ngắn", được khắc họa ở nơi vất vả, khốn khó chốn thôn quê. Hơn nữa, tự xa xưa ông cha ta quan niệm rằng: "Con trâu là đầu cơ nghiệp" và cũng chính hình ảnh ấy đã đi vào thơ ca, ca dao qua biết bao thời kì. Xuất hiện trên bức tranh thiên nhiên ấy là hình ảnh người lao động gắn liền với con trâu, thể hiện sự giản dị, gần gũi, thân thuộc với cuộc sống lam lũ, vất vả. Hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ miêu tả chi tiết công việc của "nàng dâu" và "bà lão" trong hai khoảng thời gian đối lập "sớm" - "chiều". Đây là khoảng thời gian bắt đầu và kết thúc của một ngày, không chỉ thể hiện sự cặm cụi, cần cù của người nông dân mà còn ẩn dụ sự chuyển giao, tiếp nối giữa hai thế hệ. Dưới cơn mưa xuân lất phất, hình ảnh con người trong công việc càng thêm đáng trân trọng hơn bao giờ hết. Chính mưa xuân cũng đã làm cho vạn vật trở nên sinh sôi, nảy nở:
"Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn
Khoai trong đám cỏ đã xanh cây"
Cảnh vật như khoác trên mình một chiếc áo mới tràn trề nhựa sống "đang nảy ngọn, đã xanh cây". Xuân về, đất trời dần dần thay da đổi đổi thịt. Nhựa sống tràn đầy được ấp ủ dưới lớp vỏ xơ xác của mùa đông nay tới thời bung nở tất thảy những gì đầy đặn nhất của xuân thì.
Người thi sĩ đã thổi vào trang thơ tình cảm yêu thương, gắn bó với quê hương:
"Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú
Dẫu chẳng "hành môn" đói cũng khuây"
Điền viên sở dĩ là thú vui nơi thôn dã, thường để hàm ý để những vị quan lui về ở ẩn. Tác giả vốn là vị quan có tấm lòng yêu nước, thương dân. Bài thơ được sáng tác vào thời điểm thi sĩ lui về ở ẩn và dạy học, bà con khắp xứ gần xa đều tìm đến. Tứ thơ của Nguyễn Bảo bình dị, thân thuộc, chất phác mang đậm tình yêu tha thiết đối với những con người lao động. Tác giả đã chấm phá những gam màu đẹp đẽ, gần gũi với thiên nhiên hơn bao giờ hết bởi nét giản dị ấy. Bằng cách sử dụng biện pháp đảo ngữ, nhân hóa, phép đối,...một cách tài tình để nhấn mạnh hơn sự lam lũ, vất vả của con người trên nền thiên nhiên.