Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Trình bày nghệ thuật thủy chiến trên sông Bạch Đằng

Trình bày nghệ thuật thủy chiến trên sông Bạch Đằng
2 trả lời
Hỏi chi tiết
348
1
2

Cách đây 1.080 năm, nhận được sự cầu viện của tên phản quốc Kiều Công Tiễn, Vương triều Nam Hán đã phát binh xâm lược nước ta một lần nữa. Rút kinh nghiệm từ thất bại của lần xâm lược trước (năm 930 - 931), lần này (năm 938) chúng chuẩn bị kỹ về mọi mặt, từ lực lượng đến lương thảo và phương thức tiến công. Theo tính toán của địch, để nhanh chóng thôn tính Đại Việt, chúng tổ chức 02 đạo binh tiến công trên hai hướng. Hướng thứ nhất do Hoằng Tháo chỉ huy, gồm lực lượng thủy binh hùng hậu, thiện chiến, với hàng vạn quân lương, hàng trăm chiến thuyền cỡ lớn,… thực hành vượt biển và ồ ạt tiến vào nước ta theo cửa sông Bạch Đằng. Hướng thứ hai theo đường bộ, do Lưu Cung - Vua Nam Hán trực tiếp chỉ huy, gồm lực lượng lớn bộ binh, kỵ binh áp sát biên giới, sẵn sàng ứng viện. Với ý đồ “nội công, ngoại kích”, trong lần xâm lược này, quân Nam Hán hí hửng sẽ nhanh chóng đè bẹp sự kháng cự của quân, dân Đại Việt.


Lễ kỷ niệm 1080 năm và 730 năm chiến thắng Bạch Đằng tại thị xã
Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. (Ảnh: qtv.vn)

Với tầm nhìn xa, trông rộng và tài thao lược, Ngô Quyền đã cùng với Bộ Tham mưu cuộc kháng chiến dày công nghiên cứu, phân tích, đánh giá kỹ tình hình địa hình, thời tiết, khí hậu, nhất là quy luật “con nước”; mạnh, yếu của địch, khả năng của ta để xác định phương lược tác chiến. Trước hết, nhằm làm thất bại âm mưu nham hiểm của địch, Ngô Quyền tập trung lực lượng diệt trừ bọn phản động, bán nước ở trong nước, phá tan ý đồ phối hợp ngoài tiến vào, trong đánh ra của chúng, tập trung sức mạnh cho trận quyết chiến chiến lược. Tiếp đó, trên cơ sở phán đoán đúng ý đồ của địch và nhận thức rõ thế thiên hiểm của địa hình, quy luật con nước,… cùng khả năng, sở trường của ta, Ngô Quyền cùng các tướng lĩnh đã lựa chọn khu vực cửa sông Bạch Đằng để tổ chức trận quyết chiến chiến lược. Theo kế sách đó, quân ta âm thầm, bí mật chuẩn bị lực lượng, triển khai thế trận tác chiến một cách toàn diện, liên hoàn, hiểm hóc, vững chắc và có chiều sâu trên một khu vực rộng lớn ở cửa sông Bạch Đằng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và toàn dân, đánh bại hướng tiến công chủ yếu của địch. Đúng như dự đoán của ta, cậy thế quân đông, thuyền lớn,… lại hy vọng có nội ứng bên trong, đạo quân của Hoằng Tháo đã ào ạt tiến quân và nhanh chóng lọt vào trận địa mà ta đã bày sẵn. Trong bối cảnh đó, mặc dù chủ động tiến công, nhưng do rơi vào thế bất lợi cả ở dưới sông và trên bờ, lại vấp phải sức kháng cự mãnh liệt của sức mạnh chiến tranh nhân dân, đạo thủy binh địch đã nhanh chóng bị tiêu diệt. Nghe tin đạo quân tinh nhuệ của Hoằng Tháo bị tiêu diệt hoàn toàn, Lưu Cung cùng đạo quân ứng phó, tiếp viện trên biên giới bàng hoàng, khiếp sợ và vội vã lui quân. Có thể nói, trận đánh trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938 là một trong những trận đánh xuất sắc, nhanh, gọn, hiệu quả chiến đấu cao nhất trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cho đến thời điểm đó và để lại nhiều bài học quý; tiêu biểu là nghệ thuật tạo lập thế trận tác chiến và được thể hiện ở một số điểm sau:

Một là, ra sức cố kết cộng đồng, tạo sự đồng lòng, chung sức của toàn dân để chiến thắng kẻ thù mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Chúng ta biết, cuộc kháng chiến của nhân dân Đại Việt chống quân Nam Hán xâm lược lần thứ hai diễn ra trong tình thế hết sức khó khăn do hậu quả nặng nề của quãng thời gian gần một nghìn năm Bắc thuộc. Ngô Quyền với “đội quân mới họp của nước Việt”1 còn non trẻ, trang bị vũ khí chủ yếu chỉ có cung, nỏ, lao, gậy, dao, kiếm hết sức thô sơ,... số lượng và chất lượng các loại thuyền chiến vẫn còn hạn chế. Trong khi đó, Nam Hán là một nước mạnh cả về kinh tế và quân sự, có đội quân xâm lược dày dạn kinh nghiệm chiến đấu; đặc biệt, lực lượng quân sự, nhất là thủy binh thường xuyên được đầu tư, củng cố rất mạnh với nhiều chiến thuyền lớn, đa năng và một đội cung nỏ lợi hại. Để có sức mạnh vượt trội chống lại kẻ thù, bằng uy tín, tài năng và hành động chính nghĩa, Ngô Quyền ra sức cố kết cộng đồng, thu phục lòng người,… nhằm quy tụ mọi tầng lớp nhân dân, nhất là các sĩ phu, trai tráng ở khắp các vùng, miền tham gia kháng chiến. Ngay khi được tin quân Nam Hán chuẩn bị xâm lược nước ta, một mặt, Ngô Quyền đẩy mạnh tuyên truyền về lòng yêu nước, tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến và tinh thần độc lập, tự chủ chống ngoại xâm của dân tộc; mặt khác, ra sức ổn định tình hình trong nước, thiết lập mạng lưới chính quyền chống quân xâm lược ở khắp nơi, v.v. Đây là cơ sở quan trọng để động viên, cổ vũ các tầng lớp nhân dân tích cực đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Nhờ đó, nhân dân ta từ đồng bằng ven biển đến trung du, miền núi đều tích cực đóng góp nhân tài, vật lực và công sức cho kháng chiến. Điển hình là, các thanh niên, trai tráng ở Gia Viên (nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh), Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng),... người mang vũ khí, kẻ mang thuyền bè, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em họ Lý ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ dòng họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia chiến đấu. Các hào trưởng, tộc trưởng, anh hùng, hào kiệt ở khắp nơi đều hăng hái đầu quân cho kháng chiến, thậm chí có nơi còn tự vũ trang thành các đội dân binh tại chỗ để tham gia chiến đấu. Do đó, Quân đội của Ngô Quyền tuy mới hình thành, kinh nghiệm chiến đấu chưa nhiều nhưng được nhân dân các địa phương hết sức ủng hộ, nên ngày càng được bổ sung, phát triển cả về quân số và trang bị, làm cho đội quân của Ông từ một đội binh Ái Châu đã nhanh chóng trở thành đội quân dân tộc.

Hai là, nghiên cứu nắm chắc tình hình mọi mặt, chủ động bố trí trận địa cọc hiểm hóc, tạo thế bất ngờ, đánh bại thủy quân của địch. Sông Bạch Đằng là cửa ngõ phía Đông Bắc Tổ quốc, nơi có đường giao thông quan trọng từ Biển Đông vào nội địa Việt Nam, cửa sông rộng, có nhiều nhánh sông đổ về, hai bên là núi cao, cây cối um tùm, che lấp bờ sông - một địa hình thiên hiểm. Nghiên cứu nắm chắc địa hình, sông nước và các cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù phương Bắc trước đây, Ngô Quyền tiên đoán rằng, đoàn thuyền chiến của Hoằng Tháo sẽ vượt biển tiến vào cửa sông Bạch Đằng rồi vào sâu nội địa nước ta. Vì thế, Ngô Quyền đặt quyết tâm: lợi dụng địa hình hiểm trở của rừng núi, sông nước vùng Đông Bắc để bày binh, bố trận hiểm hóc tại vùng hạ lưu và cửa biển Bạch Đằng nhằm diệt gọn toàn bộ chúng tại đây. Tuy nhiên, một vấn đề quan trọng đặt ra là, làm thế nào hãm được địch ở trên sông để tập trung lực lượng tiêu diệt, trong khi chúng có thuyền lớn, quân đông và thành thạo thủy chiến. Để giải quyết vấn đề này, Ngô Quyền chủ trương: phải thiết lập các bãi cọc ngầm, kiên cố, ở giữa lòng sông, nơi hiểm yếu và được vận hành theo quy luật con nước thủy triều để chặn giặc. Theo đó, Ông trực tiếp lựa chọn những người giỏi địa lý, thường xuyên theo dõi thực tế và nắm chắc quy luật thủy triều lên xuống hằng ngày để xác định các vị trí đóng cọc phù hợp. Ngoài ra, Ông còn tính độ mớm nước của thuyền địch, từ đó tính toán chính xác độ cao của hàng cọc để không gây khó khăn cho đoàn thuyền địch khi tiến vào cửa biển, nhưng lại chặn đứng chúng khi tháo chạy lúc thủy triều xuống. Thực hiện kế hoạch đề ra, Ngô Quyền huy động quân và dân vào rừng chặt gỗ, vận chuyển ra khu tập kết, động viên nhân dân tích cực rèn mũi sắt, vát nhọn đầu cọc,... làm tốt mọi công tác chuẩn bị. Trong thời gian ngắn, mặc dù thời tiết những ngày cuối năm mưa dầm, gió bấc, trời rét buốt như cắt vào da thịt, nhưng hàng nghìn cây gỗ nhọn đầu, bịt sắt đã được quân và dân ta bí mật cắm xuống lòng sông theo đúng ý định. Thực tiễn trận Bạch Đằng cho thấy, việc bí mật thiết lập các bãi cọc ngầm ở dưới lòng sông, quân và dân ta không chỉ khiến địch hoàn toàn bất ngờ, mà còn buộc chúng đang ở thế chủ động tiến công rơi vào thế bị động, lúng túng đối phó và nhanh chóng bị tiêu diệt. Đây là một thế trận sáng tạo, độc đáo trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Vì thế, đội thuyền chiến đông đảo của địch đã bị chặn đứng, dồn lại trong thế hỗn loạn khi quân ta tổ chức phản kích tiêu diệt.

Ba là, tổ chức, bố trí các lực lượng hợp lý, tạo sức mạnh tổng hợp, tiêu diệt lớn quân địch, kết thúc chiến tranh. Để giành thắng lợi quyết định trong trận quyết chiến chiến lược, cùng với bố trí trận địa cọc ở những nơi hiểm yếu, Ngô Quyền còn tổ chức, bố trí các lực lượng tác chiến một cách chặt chẽ, khoa học để hình thành trận địa mai phục quy mô lớn ở vùng hạ lưu và cửa sông Bạch Đằng. Thế trận đó gồm các lực lượng: chặn đầu, khóa đuôi,… và hai bên sườn đủ mạnh, phối hợp chặt chẽ với nhau để chặn đứng đội hình tiến công của chúng, thực hành phản kích mạnh mẽ, đủ sức tiêu diệt toàn bộ đạo binh thuyền của địch. Theo đó, ở phía đầu nguồn, Ngô Quyền tổ chức và trực tiếp chỉ huy lực lượng chặn địch; sử dụng một lực lượng thủy binh dày dặn kinh nghiệm chiến đấu, giỏi sử dụng thuyền chiến, do Dương Tam Kha chỉ huy, bố trí ở tả ngạn sông Bạch Đằng, phục sẵn ở các kênh rạch bên sông. Còn bên hữu ngạn sông Bạch Đằng, là nơi bố trí lực lượng (gồm cả thủy binh và bộ binh) do Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy, cánh quân này sẽ phối hợp chặt chẽ với các lực lượng dân binh địa phương để đánh địch. Nhiệm vụ của hai cánh quân này là đánh ập vào hai bên sườn đội hình địch, đẩy chúng xuống lòng sông, tạo điều kiện cho thủy quân tiêu diệt. Với cách tổ chức, sử dụng, bố trí lực lượng như vậy, kết hợp với trận địa cọc tạo thành một thế trận “thiên la, địa võng”, khiến đạo quân xâm lược không còn đường về.

Trận quyết chiến đã được bày sẵn, nhưng làm thế nào để kẻ thù mau chóng lọt vào trận địa mai phục của ta mà vẫn bảo đảm được yếu tố bí mật, bất ngờ? Để giải quyết vấn đề này, Ngô Quyền tổ chức một lực lượng khiêu chiến, do Nguyễn Văn Tố - người giỏi bơi lặn và quen thuộc sông nước Bạch Đằng - chỉ huy. Với những thủy binh có nhiều kinh nghiệm trên chiến trường sông nước, Ông sử dụng chiến thuyền vừa nhỏ vừa nhẹ, cơ động linh hoạt để đánh và dụ chúng đi vào khu vực trận địa cọc ta chuẩn bị và kìm chân chúng ở đó, tạo điều kiện cho lực lượng chủ lực phản kích, tiêu diệt địch khi nước rút. Thực tế chứng minh, khi địch cơ động vào cửa sông Bạch Đằng đã bị lực lượng nhỏ của ta khiêu khích vừa đánh, vừa lừa, dụ chúng vào trận địa mai phục; khi nước rút, ta nhanh chóng phản kích mạnh mẽ, từng bước phá vỡ đội hình, không cho chúng có điều kiện, thời cơ triển khai đội hình chiến đấu. Trong thế bị động, quân địch vội rút ra biển, nhưng bị trận địa cọc chặn lại, làm cho đội hình hỗn loạn, mất sức chiến đấu; chớp thời cơ, ta nhanh chóng tiến công tiêu diệt từng bộ phận, tiến tới đánh bại hoàn toàn quân địch, kết thúc cuộc chiến.

Chiến thắng Bạch Đằng đã đi vào lịch sử dân tộc như một huyền thoại, để lại cho chúng ta nhiều bài học quý, nhất là bài học xây dựng thế trận trên sông nước. Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng trong việc xây dựng thế trận quân sự trong các khu vực phòng thủ, xây dựng thế trận phòng thủ biển, đảo bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
1
Nguyễn Minh Vũ
10/11/2019 12:00:33
Sau thất bại của cuộc xâm lược lần thứ nhất (năm 930, 931), vương triều Nam Hán chưa từ bỏ dã tâm thôn tính nước ta. Vì thế, sự cầu viện của tên phản quốc Kiều Công Tiễn là “thời cơ vàng” để chúng phát động chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Nhằm tránh lặp lại thất bại, vua Nam Hán đã chuẩn bị rất kỹ, với lực lượng hàng chục vạn quân lương thảo dồi dào và hàng trăm chiến thuyền cỡ lớn,… Theo ý đồ và kế hoạch đã vạch ra, địch chia quân làm hai đạo: đạo binh thứ nhất, gồm lực lượng chủ lực tinh nhuệ cùng nhiều chiến thuyền lớn do thái tử Lưu Hoằng Tháo cầm đầu, theo đường biển ồ ạt tiến vào nước ta; đạo binh thứ hai, do vua Nam Hán trực tiếp chỉ huy, áp sát biên giới để sẵn sàng ứng viện.
Mô hình Chiến thắng Bạch Đằng (năm 938) Đoán trước được ý đồ “nội công, ngoại kích” của địch, Ngô Quyền đã tập hợp các tướng lĩnh, hào kiệt, kéo quân từ Ái Châu ra nhanh chóng diệt trừ tên phản quốc Kiều Công Tiễn và bè đảng của hắn - dập tắt mối họa bên trong, làm thất bại ngay từ đầu âm mưu dùng nội ứng của vương triều Nam Hán. Tiếp đó, chuẩn bị đất nước về mọi mặt để chống giặc. Trước thế giặc mạnh, Ngô Quyền một mặt kêu gọi, động viên nhân dân phát huy sức mạnh cố kết cộng đồng và khí thế độc lập của dân tộc, tạo sức mạnh tổng hợp để đối phó với chiến tranh xâm lược. Mặt khác, Ông chủ trương lợi dụng địa hình hiểm trở của núi rừng, sông nước vùng Đông Bắc bày một thế trận hiểm hóc và tập trung lực lượng mạnh để tiến hành trận chiến lớn, đánh bại quân địch ngay tại cửa sông Bạch Đằng. Theo kế sách này, quân ta đã bí mật bố trí các bãi cọc ngầm ở nơi hiểm yếu dưới lòng sông Bạch Đằng và triển khai các trận địa mai phục hai bên bờ, sẵn sàng đánh địch. Đúng như dự đoán của ta, khi bị kích động bởi bộ phận khiêu chiến, nhử địch, quân Nam Hán đã hùng hổ tiến vào sông Bạch Đằng hòng “ăn tươi, nuốt sống” quân ta và chúng đã mắc mưu - lọt vào trận địa mà ta đã bày sẵn. Khi nước thủy triều đang xuống, Ngô Quyền lệnh cho thủy quân từ các vị trí ở thượng lưu phản công kiên quyết, mãnh liệt đánh xuống chặn đầu, kết hợp với quân thủy, quân bộ mai phục hai bên bờ sông đánh vào bên sườn đội hình địch. Bị đòn đánh mạnh bất ngờ, quân địch không kịp trở tay, hoảng loạn tháo chạy hòng thoát ra biển, nhưng đâm vào trận địa cọc ngầm của quân ta. Trong thời gian ngắn, toàn bộ chiến thuyền của địch bị nhấn chìm, hầu hết quân địch bị tiêu diệt, trong đó có cả chủ soái Lưu Hoằng Tháo. Chiến thắng nhanh, gọn, triệt để của quân và dân Tĩnh Hải quân1 trên sông Bạch Đằng khiến vua Nam Hán không kịp ứng phó, tiếp viện mà chỉ có cách duy nhất là “thương khóc, thu nhặt tàn quân còn sót mà rút lui”2 và từ bỏ dã tâm xâm lược nước ta.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa lịch sử to lớn, là mốc son chói lọi chấm dứt hơn một nghìn năm Bắc thuộc; phá tan mưu đồ “đồng hóa” - một chính sách đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa Đại Hán tộc; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên phát triển của quốc gia phong kiến độc lập, tự chủ, thời kỳ trưởng thành của dân tộc Việt NamChiến thắng đó đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý, nhất là nghệ thuật đánh bại quân xâm lược ngay từ cửa ngõ đất nước được thể hiện ở một số điểm sau:
Một là, quyết định “phương lược” đánh giặc sớm, đúng đắn, sáng tạo. Có thể thấy phương lược trong trận chiến Bạch Đằng là hết sức táo bạo nhưng đúng đắn, chính xác mà trước đó chưa hề có trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng đắn về tương quan so sánh lực lượng, Ngô Quyền thấy rõ chỗ mạnh của địch: quân đông, vũ khí, trang bị mạnh, nhất là các thuyền chiến lớn. Nhưng quan trọng hơn, thấy rõ những điểm yếu chí tử của chúng; đó là: tướng giặc (Lưu Hoằng Tháo) còn trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trận mạc, kiêu ngạo, chủ quan, khinh địch, không có nội ứng lại cơ động từ xa đến, địa hình xa lạ, hiểm trở nên tinh thần mỏi mệt, cùng những ám ảnh bởi thất bại của lần xâm lược trước. Về phía ta, Ngô Quyền đã diệt trừ nội phản, ổn định nội bộ bên trong để rảnh tay chống giặc ngoại xâm; được nhân dân đồng tình ủng hộ, sự đồng lòng của các tướng lĩnh, hào kiệt quyết tâm đánh giặc giữ nước. Bởi thế, trong thời gian ngắn, lực lượng của ta đã có tới vài vạn người; trong đó, đạo quân Ái Châu do Ông trực tiếp tuyển mộ, huấn luyện làm nòng cốt. Tuy có nhiều thuận lợi, nhưng quân ta cũng gặp nhiều khó khăn, đó là: thời gian chuẩn bị ngắn, lực lượng kháng chiến chưa được huấn luyện kỹ, vũ khí, trang bị còn thô sơ so với địch. Song xét tổng quan, sức mạnh tổng hợp của ta mạnh hơn địch. Thứ nhất, yếu tố con người - toàn dân ủng hộ và tập hợp được các tướng lĩnh có tài thao lược. Thứ hai, khu vực ta lựa chọn đánh địch có địa hình thiên hiểm, thuận lợi cho ta bày thế trận để phát huy cao nhất sức mạnh của các lực lượng và trang bị, vũ khí (thuyền nhỏ, cung nỏ). Thứ ba, quân Nam Hán từ xa đến nên tinh thần uể oải, không thông thạo địa hình, thổ nhưỡng, thủy triều. Như vậy, quân ta hội tụ đủ ba nhân tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, lấy “sức nhàn thắng sức mỏi”. Do đó, khi bàn phương lược mưu, kế, thế trận chống giặc với các tướng sĩ, Ngô Quyền nói: “Hoằng Tháo là một đứa trẻ dại, đem quân từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi; quân ta sức còn mạnh địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Song họ có lợi ở thuyền, nếu ta không phòng bị trước thì chuyện được thua chưa thể biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở cửa biển trước, vạt nhọn đầu mà bịt sắt, thuyền của họ nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc, bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả”2. Sau khi phân tích đánh giá kỹ những điểm mạnh, yếu của ta và địch, Ngô Quyền quyết định tổ chức một trận quyết chiến chiến lược tiêu diệt đạo binh thuyền giặc ngay tại vùng cửa sông Bạch Đằng, nơi chúng ắt phải đi qua để tiến vào nội địa nước ta.
Hai là, chủ động nắm tình hình địa hình, thời tiết, khí hậu, thủy văn, thiết lập thế trận đánh địch hiểm, chắc. Theo sử sách để lại, sông Bạch Đằng có tên gọi là sông Vân Cừ, cửa sông rộng hơn 2 dặm, ở đó có nhiều núi cao, nhiều nhánh sông đổ lại, sóng cồn man mác giáp tận chân trời; cây cối um tùm che lấp bờ sông, thực là một nơi hiểm yếu. Tuy nhiên, vấn đề cốt lõi của thế trận này là việc bố trí và phát huy sức mạnh của các bãi cọc ngầm dưới lòng sông. Các bãi cọc này phải ở nơi hiểm yếu, được ngụy trang bằng con nước thủy triều lên và sẽ phát huy tác dụng khi địch rút chạy ra biển vào thời điểm thủy triều xuống. Để làm được điều đó, Ngô Quyền đã khéo chọn: những người giỏi địa lý trực tiếp theo dõi, tìm hiểu trong dân nắm chắc quy luật (thời điểm, mức độ, tốc độ) thủy triều lên xuống hằng ngày để chọn vị trí đóng cọc; huy động quân, dân vào rừng đẵn gỗ, vận chuyển ra vị trí tập kết; động viên nhân dân tích cực rèn mũi sắt,... Chính vì thế, chỉ trong thời gian ngắn, mặc dù, thời tiết những ngày cuối năm, mưa dầm, gió bấc, trời rét buốt da, buốt thịt kéo dài, nhưng hàng nghìn cây gỗ lim, sến đầu vạt nhọn, bịt sắt đã được bí mật cắm xuống lòng sông (khu vực cửa Nam Triệu hiện nay). Một vấn đề quan trọng nữa quyết định thắng lợi của trận đánh là bố trí lực lượng chính diện và hai bên sườn đủ mạnh, phối hợp chặt chẽ với nhau để chặn đứng và tiến công mãnh liệt quân địch tại cửa sông Bạch Đằng. Đây là vấn đề có tính then chốt, bởi nếu để địch tràn qua điểm chặn đầu, tiến sâu vào nội địa thì thế trận do ta dày công xây dựng sẽ trở nên vô nghĩa. Nhận rõ điều này, Ngô Quyền đã chú trọng xây dựng thế trận chặn địch vững chắc phía đầu nguồn cùng một lực lượng tinh nhuệ do Ông trực tiếp chỉ huy; còn lại phần lớn quân thủy, quân bộ được bố trí mai phục ở hai bên bờ sông có nhiệm vụ đánh ập vào hai bên sườn, dìm địch xuống lòng sông, tạo điều kiện cho thủy quân tiêu diệt. Việc bố trí bãi cọc, triển khai thế bố trí lực lượng ở cửa sông Bạch Đằng tạo thành thế trận thủy chiến hiểm hóc, vững chắc - “đất chết” của địch.
Ba là, tổ chức chỉ huy tài tình, khéo léo, linh hoạt, kịp thời theo “con nước”. Để trận quyết chiến chiến lược kết thúc thắng lợi trong một lần thủy triều lên xuống là việc làm không hề đơn giản. Nếu tính toán của ta không chính xác, “lực không mạnh, thế không vững”, không buộc được địch phải rút chạy đúng thời điểm (thủy triều xuống) thì trận đánh không những không thắng lợi mà có thể phải chịu thất bại nặng nề, đất nước sẽ lại chìm trong cảnh nô lệ của phong kiến phương Bắc. Trong trận quyết chiến chiến lược này, Ngô Quyền đã khéo phán đoán, xử lý và dẫn dắt tình huống, chuyển hóa thế trận một cách linh hoạt, có lợi nhất để từng bước phá vỡ đội hình hành quân đường dài của địch, không cho chúng triển khai đội hình chiến đấu, tiêu diệt từng bộ phận, tiến lên đánh bại hoàn toàn quân địch. Ở đây còn biểu hiện rõ nghệ thuật nghiên cứu, nắm chắc quy luật tự nhiên, theo dõi chặt chẽ “nhất cử, nhất động” của đạo binh thuyền địch; từ đó, tính toán nhử, dụ địch vào “đất chết” để tạo và chớp thời cơ tiến công tiêu diệt chúng. Trong suốt trận đánh, Ngô Quyền luôn nắm và giữ quyền chủ động trên chiến trường, vận dụng linh hoạt các thủ đoạn tác chiến: vừa đánh, vừa lui, vận động tiến công kết hợp với cản phá bằng trận địa cọc, truy kích tiêu diệt địch tháo chạy. Với nghệ thuật phát triển cách đánh liên tục, sáng tạo theo tiến độ trận đánh nên quân địch đang từ thế chủ động đã lâm vào bị động đối phó, bất ngờ,... đẩy chúng đến chỗ tuyệt vọng, sụp đổ và bị tiêu diệt hoàn toàn.
Ngoài ra, Ngô quyền còn chủ động khơi dậy tinh thần độc lập dân tộc, cố kết cộng đồng, động viên mọi tiềm lực trong dân, nhất là sức người, sức của cho trận đánh. Khi nghe tin Ông dấy binh đánh giặc, nhân dân khắp nơi nô nức mang lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuyền chiến tham gia và ủng hộ cuộc kháng chiến. Các thanh niên, trai tráng ở Gia Viện (nơi Ngô Quyền đặt đại bản doanh), Lâm Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng), Đằng Châu (Kim Động, Hưng Yên),… người mang vũ khí, kẻ mang thuyền bè, tìm đến cửa quân xin diệt giặc. Ba anh em Lý Minh, Lý Bảo, Lý Khả ở Hoàng Pha (Hoàng Động, Thủy Nguyên), ông tổ họ Phạm ở Đằng Giang (An Hải, Hải Phòng) cũng chiêu mộ dân binh, hăng hái tham gia kháng chiến,… làm cho đội quân của Ngô Quyền, từ một đội binh Ái Châu đã nhanh chóng trở thành đội quân dân tộc.
Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc. Nó đã để lại cho thế hệ sau bài học quý về nghệ thuật đánh bại quân địch ngay từ trận đầu, tuyến đầu ở môi trường sông nước, kết thúc thắng lợi chiến tranh trong thời gian cực ngắn. Bài học đó đã được vận dụng trong lịch sử chống ngoại xâm của cha ông ta và đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là đối với chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong tương lai (nếu xảy ra).

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Lịch sử Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư