Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nêu cảm nhận về nhân vật Chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao

Nêu cảm nhận về nhân vật Chí phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao
 

3 trả lời
Hỏi chi tiết
633
1
0
Thảo
28/12/2019 19:52:57

Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phấm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nối lên hình tượng Chí Phèo trong tác phấm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã đế lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.

Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hon nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khố đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.

 

Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khố đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khố và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thử cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hon phải tha hương cầu thực ở xứ người.

Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đấy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỉ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.

Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỉ dữ.

Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỉ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với nhũng người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thế ngay trong nhừng hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hon khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.

Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Neu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đòi sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.

Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thế khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tụ’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ưót nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mất và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giói người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn".

Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đòi trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.



Ướt át, dạt dào, chẳng còn khô hạn, đau rát. Bí quyết cho chị em!
Slady

Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã tù’ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỉ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và họp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đen nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.

Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thế hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.

Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan bởi bản thân nhũng người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lung vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biếu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuối, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hon?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Ket thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.

Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với nhũng kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hon, trân trọng hon hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Phuong
28/12/2019 19:57:38

Trong Giăng sáng Nam Cao đã đã viết lên một quan niệm văn chương thật sâu sắc và thấm thía "Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời". Với quan niệm nghệ thuật đáng quý ấy Nam Cao đã mạnh mẽ bước vào đứng giữa những tầng lớp nhân dân cùng khổ, những người nông dân nghèo, trí thức nghèo đang bị cái xã hội thối nát làm cho điêu đứng để viết ra những tác phẩm văn chương chân chính, vừa tố cáo hiện thực xã hội tàn ác vừa đồng cảm và xót thương cho những mảnh đời bất hạnh những năm tháng trước Cách mạng. Bên cạnh Đời thừa, Vợ nhặt, Sống mòn thì Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao viết về đề tài người nông dân. Ở đó người ta thấy hiện lên một xã hội thực dân - nửa phong kiến tàn ác, từng bước dồn người nông dân, những con người vốn lương thiện như Chí Phèo vào bước đường bi kịch bị từ chối quyền làm người một cách đau đớn và xót xa vô cùng.

Có lẽ ai cũng có ấn tượng sâu đậm về một Chí Phèo nát rượu, chuyên rạch mặt ăn vạ và hay chửi thế nhưng có phải ngay từ ban đầu Chí đã đổ đốn và trở nên đáng sợ như vậy không? Câu trả lời là hoàn toàn không phải, Nam Cao đã tường tận nói về cả cái gốc gác con người và cả cái tâm hồn cao quý ban đầu của nhân vật, điều đó đã làm cho ấn tượng về cái bi kịch của nhân vật chính trong truyện càng thêm sâu sắc và có căn nguyên rõ ràng. Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được trao cho hết người này đến người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại. Có thể nói rằng ngay từ khi lọt lòng Chí Phèo đã gặp phải bi kịch lớn của cuộc đời - bi kịch bị bỏ rơi. Thế nhưng thật may mắn rằng, Chí tuy lớn lên thiếu thốn tình cảm gia đình, cuộc sống vất vả không ruộng đất, nhưng anh lại là người hiền lành, lương thiện. Sự lương thiện của Chí Phèo thể hiện ở chỗ, anh quyết tâm làm ăn chân chính, đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, bỏ mồ hôi công sức để kiếm sống. Hơn thế nữa ấn tượng về tâm hồn lương thiện của nhân vật này còn thể hiện ở lòng tự trọng sâu sắc trước sự ve vãn của bà ba vợ Bá Kiến, Chí thấy xấu hổ "chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì" hay "Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì người ta khinh" cái nội tâm Chí khi nghĩ về bản thân cũng khiến người ta phải yêu thương, trân trọng về một tấm lòng trong sáng, hiểu biết và đạo đức vô cùng. Rồi năm 20 tuổi ấy, Chí Phèo cũng có một giấc mơ dung dị, bình thường nhưng rất đỗi tươi đẹp, đó là giấc mơ có một mái ấm gia đình, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nuôi lợn, dành dụm mua đất,...cứ thế mà bình bình đạm đạm qua ngày. Có thể nói rằng giấc mơ của Chí Phèo là một giấc mơ thực tế, giấc mơ có thể thực hiện được của những con người lương thiện, cần cù chứ không phải viển vông xa vời như "một túp lều tranh hai trái tim vàng". Và nếu không có gì bất ngờ thì có lẽ Chí Phèo đã thực hiện được ước mơ nhỏ bé đó của mình rồi, chỉ tiếc rằng cuộc đời vẫn lắm trái ngang, đặc biệt là trái ngang với kẻ lương thiện, hiền lành.

Thật lạ lùng, bởi một con người hiền lành lương thiện, có ý chí phấn đấu như Chí thế nhưng cuối cùng lại rơi vào bước đường bi kịch bị tha hóa nhân cách, bị tước quyền làm người. Chí Phèo có lòng tự trọng, anh giữ mình trong sạch trước sự lẳng lơ lăng loàn của người đàn bà kia, thế nhưng Bá Kiến, một kẻ hay ghen và ác độc đại diện cho chế độ phong kiến quyền lực lại không thấy vậy. Hoặc cũng có thể là hắn biết nhưng cái lòng ghen của hắn đã không thể tha thứ cho Chí Phèo và rắp tâm đẩy anh vào tù sống khổ sở tới tận 7, 8 năm trời vì một cái tội và Chí vốn không làm. Nhà tù của chế độ cũ chắc là một cái gì đó kinh khủng lắm, cái nhà tù thực dân - phong kiến đã nhào nặn Chí từ một người nông dân đứng đắn, có lòng tự trọng thành một thằng lưu manh chính hiệu, tha hóa nhân cách, không biết đến tự trọng là gì. Bởi khi thấy Chí trở về anh đã thay đổi cả hình dạng lẫn tính cách, còn đâu một anh Chí hiền lành, chất phác ngày xưa, mà chỉ thấy một người với bộ dạng "Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!", khiến người ta e ngại và sợ hãi. Nhưng những thay đổi về nhân hình vẫn chưa đủ để chứng minh Chí Phèo là một kẻ lưu manh, chỉ khi phát hiện những thay đổi về nhân tính người ta mới nắm chắc rằng, Chí đã không còn là anh canh điền khi xưa nữa mà là Chí Phèo, một kẻ nhân cách dị dạng. Ngay hôm đầu tiên ra tù hắn đã ra giữa chợ ngồi uống rượu ăn thịt chó từ trưa tới chiều, rồi uống cho say khướt, rồi xách cái vỏ chai đến nhà Bá Kiến, gọi thẳng tên tục ra mà chửi. Rồi từ chửi bới, hắn lại đâm ra đánh nhau với lý Cường, rồi sau đó đổ đốn ra ăn vạ, ăn vạ một cách vô cùng cực đoan, Chí Phèo đập vỡ vỏ chai rồi lấy mảnh vỏ cào vào mặt, máu chảy bê bết, khiến người ta từ hứng chí xem trò vui đâm ra sợ hãi và ghê tởm trước cảnh tượng Chí Phèo nằm lăn ra ăn vạ. Xong màn ăn vạ Chí Phèo lại đâm ra thách thức với cả Bá Kiến, với khẩu khí rất ngang ngược, bất cần "Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đây thôi". Có thể nói rằng Chí Phèo sau khi đi tù trở về đã bị lưu manh hóa hoàn toàn, trở thành con người hung hăng, liều lĩnh, cái bản chất lương thiện dường như đã bị bóp chết trong 7, 8 tù đày ấy.

Thế nhưng sự tha hóa của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó, Chí Phèo tiếp tục trượt dài trên sự lưu manh, mất nhân tính trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, sự tha hóa này có một nửa nguyên nhân là sự gian xảo của Bá Kiến nửa còn lại cũng là bắt nguồn từ cuộc đời bị bỏ rơi, không gia đình, không học hành của Chí, thế nên hắn mới có thể dễ dàng bị Bá Kiến lợi dụng và tha hóa nhân cách đến độ không thể cứu vãn được. Sự khờ khạo u mê của Chí, đã khiến Chí bán lẻ nhân cách của mình, đi đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến để lấy vài hào bạc sống qua ngày mà không hề ý thức được. Nam Cao đã rất dụng tâm để khắc họa lại chân dung của nhân vật này, đó không phải là chân dung của một con người có nhân tính như trước kia mà đó là chân dung của một con vật lạ, đó là một gương mặt "vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo". Nhiêu đấy câu chữ thôi nhưng cũng đủ làm người ta phải thấy đau đớn, xót xa cho một số kiếp làm người, nhưng lại không phải là con người nữa mà là một "con vật lạ" không biết là con gì. Không chỉ nhân hình hóa thú mà cả nhân tính của Chí Phèo cũng hoàn toàn biến đổi, vặn vẹo từ một kẻ thích uống rượu trở thành một kẻ triền miên trong những cơn say, "cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận", cơn say ấy đã kéo dài suốt 15 năm. Và cơn say ấy đã biến cuộc đời Chí Phèo thành bi kịch, bởi khi say hắn có thể làm bất kỳ điều gì mà Bá Kiến yêu cầu, "bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!", xót xa hơn cả là "Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn", Chí Phèo bán linh hồn, bán cả cuộc đời cho rượu chè và việc đâm thuê chém mướn. Rồi cuộc đời hắn nát bấy, hắn trở thành kẻ chuyên chửi, hắn chửi đời, chửi tất cả, "chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?" để cho hắn đớn đau, khổ sở lay lắt trên cõi này đã hơn 40 năm. Nhưng từ cái chửi của Chí Phèo người ta cũng nhìn ra được cái khát khao giao tiếp, đối thoại với cộng đồng của một con người khốn khổ, Chí Phèo mong rằng có ai đó chửi nhau với hắn, hoặc nói chuyện với hắn, thế nhưng hắn càng chửi người ta càng sợ, càng xa lánh hắn, thậm chí nghe hắn chửi miết cũng thành quen, mà không ai đoái hoài tới hắn cả. Như vậy bản thân Chí Phèo đã thất bại trong giao tiếp, hắn bị đẩy ra khỏi cộng đồng, bị cô lập, bị từ chối quyền làm người, hắn thực sự trở thành một con quỷ dữ, sánh ngang với cả loài chó "chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!". Như vậy đằng sau cái bi kịch đau thương của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã gửi gắm một thông điệp để phơi bày, tố cáo và lên án cái xã hội cũ đầy bất công ngang trái, với giai cấp thống trị nắm trong tay quyền lực tối thượng đã gây ra biết bao đớn đau và bi kịch cho tầng lớp nông dân cùng khổ, tiêu biểu là Chí Phèo với bi kịch tha hóa.

Nhưng nếu chỉ tha hóa không thôi thì câu chuyện chỉ dừng lại ở mức độ tố cáo xã hội cũ, việc Nam Cao để cho Chí Phèo gặp Thị Nở rồi hồi sinh cái tấm lòng thiện lương tưởng đã chết của hắn mới thực sự đem lại cho câu chuyện những ý nghĩa nhân văn sâu sắc hơn cả. Khởi đầu của việc hồi sinh phải kể đến việc Chí Phèo tỉnh rượu sau đêm gặp gỡ thị Nở, hắn bắt đầu có những nhận thức về thế giới xung quanh, hắn nhận ra ánh sáng của nắng ngoài trời đã lên cao, nghe được tiếng chim ríu rít ngoài vườn nhà, tiếng người ta trò chuyện với nhau, và hắn cũng nhận ra cái thân thể yếu ớt, đã qua dốc bên kia đời người của mình. Hắn nhận ra mình cô độc, hắn thấy buồn, rồi bắt đầu hắn nhớ về những ước mơ khi còn trai trẻ, chỉ tiếc là đã dang dở tới hơn hai mươi năm nay, rồi hắn nhìn về hiện tại, cũng đoán trước được cái tuổi già ốm đau, đói rét, và đáng sợ nhất là sự cô độc, không thân thích. Nguyên nhân thứ hai khiến Chí Phèo hồi sinh và có ý nghĩa quyết định ấy là Thị Nở một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, thế nhưng thị lại là người đầu tiên quan tâm tới hắn khi hắn ốm đau, thị nói chuyện với hắn, tình tứ với hắn, thị không xa lánh hắn, và bát cháo hành của thị khiến hắn cảm động vô cùng. Tất cả những điều ấy đã khiến Chí Phèo thức tỉnh tính người, Chí Phèo đã khóc trước sự quan tâm ân cần của Thị Nở, hắn thấy mắt mình ươn ướt, những giọt nước mắt ấy đã ngăn cản không cho Chí Phèo tiếp tục trượt dài trên con đường tha hóa. Không chỉ thức tỉnh tính người mà ở Chí còn là sự thức tỉnh của tình người, Chí Phèo đã biết đến tình yêu, biểu hiện cao nhất của tình người, hắn yêu thị Nở, hắn thấy thị Nở có duyên, hắn khao khát được xây dựng mái ấm hạnh phúc với thị Nở. Không chỉ thức tỉnh tính người, tình người mà ở Chí Phèo còn thức tỉnh cả khát vọng làm người, khát vọng quay lại cuộc đời lương thiện "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(...). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện...". Và thị Nở sẽ thành cầu nối của hắn, đưa hắn về với cuộc sống hạnh phúc, chan hòa với mọi người cuộc sống mà bao năm nay hắn vẫn hằng khao khát nhưng nằm ngoài tầm tay với.

Thế nhưng bi kịch của Chí Phèo vẫn không hề dừng lại bởi sự thức tỉnh của hắn mà còn nên đau đớn và xót xa đến tận cùng, hắn bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn muốn cưới Thị Nở thế nhưng chính bà cô của thị đã khiến hắn nhận ra rằng hắn không thể quay lại quay lại làm người được nữa, cả cái xã hội này đã từ bỏ hắn lâu rồi. Từ nhận thức đớn đau và tuyệt vọng như vậy, Chí Phèo đã nhận ra rằng chỉ có cái chết mới là sự kết thúc bi kịch, mới là sự giải thoát, quyết định tự tử của Chí Phèo chính là biểu hiện của bản chất lương thiện tồn tại bất diệt trong tâm hồn Chí, giờ đây chỉ có kết liễu mạng sống thì mới có thể hoàn toàn từ bỏ cuộc đời của một con quỷ dữ, một thằng lưu manh, bị cả xã hội xa lánh.

Cuộc đời của Chí Phèo từ lúc bắt đầu cho đến tận lúc kết thúc, hơn 40 năm trời đều chỉ là bi kịch, hắn chỉ được nếm chút hạnh phúc nhỏ nhoi rồi lại lập tức bị vùi ngay xuống những bi kịch không thể chịu đựng, bi kịch bị từ chối quyền làm người, rồi cuối cùng là cái chết để giải thoát. Bằng cách xây dựng nhân vật kỹ lưỡng, tài tình, ngôn ngữ biến ảo, chân thực, Nam Cao đã tạo nên một nhân vật điển hình, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc, phản ánh, tố cáo sự bất công, độc ác của chế độ cũ, đồng thời thể hiện tấm lòng xót thương cho những số phận người nông dân bất hạnh ở chế độ cũ. Không chỉ vậy đọc Chí Phèo người ta còn phát hiện ra những vẻ đẹp bất diệt trong tâm hồn của nhân vật đó là tấm lòng lương thiện, khao khát được sống, được giao tiếp với xã hội dù rằng trong những khốn cảnh nhất định nó đã vô tình bị che lấp đi.

0
0
Kiệt
28/12/2019 20:10:51

Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phấm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nối lên hình tượng Chí Phèo trong tác phấm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã đế lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.

Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hon nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khố đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.

Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khố đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khố và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thử cỏ dại trôi dạt hết góc này đến xó nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hon phải tha hương cầu thực ở xứ người.

Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đấy Chí tới gia đình lí Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “quỉ cái” của lí Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.

Ở Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỉ dữ.

Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỉ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với nhũng người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thế ngay trong nhừng hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng… Hắn càng ác và đáng sợ hon khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.

Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Neu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đòi sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.

Sống, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.

Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thế khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tụ’ ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ưót nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mất và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giói người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.

Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đòi trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.

Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỉ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và họp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đen nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.

Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thế hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.

Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan bởi bản thân nhũng người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lung vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biếu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuối, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hon?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Ket thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.

Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với nhũng kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hon, trân trọng hon hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500K