3. Hiếu Là Phụng Dưỡng Mẹ Cha
Ngồi buồn thương mẹ nhớ cha,
Gối loan ai đỡ, kỷ trà ai nâng.
Không được gần-gũi, kề-cận với cha mẹ già tạo ra nhiều lo-lắng nhớ thương:
Đi đâu mà bỏ mẹ già,
Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai dâng?
Không phụng-dưỡng được mẹ cha, xem như là bất hiếu:
Mẹ già ở tấm lều tranh,
Đói no không biết, rách lành chẳng hay.
Nuôi-dưỡng, săn-sóc cha mẹ khi già-yếu là hình-thức hiếu căn-bản trong đời sống gia-đình:
Mẹ già đầu bạc như tơ,
Lưng đau con đỡ, mắt mờ con nuôi.
Ngày đêm may vá kiếm tiền,
Trước nuôi cha mẹ, sau tuyền đạo con.
Sự phụng-dưỡng không đòi hỏi phải cao-sang. Cung-cách phụng-dưỡng mới nói lên được lòng hiếu-thảo:
Anh đi vắng cửa vắng nhà,
Giường loan gối quế, mẹ già ai nuôi!
Cá rô anh chặt bỏ đuôi,
Tôm càng bóc vỏ, anh nuôi mẹ già.
Ba tiền một khứa cá buôi,
Cũng mua cho được mà nuôi mẹ già.
Người Huế có thêm một cách phụng-dưỡng rất địa-phương:
Tôm rằn lột vỏ, bỏ đuôi,
Gạo de An-cựu mà nuôi mẹ già.
Con-cái ăn gì thì cha mẹ già ăn thứ đó, không đòi-hỏi phải cao-sang. Với gia-đình bình-dân thì cơm với cá là món ăn căn-bản cho cha mẹ. Nếu có một chút hy-sinh quyền-lợi căn-bản của chính mình, như nhịn phần cơm của mình để nuôi cha mẹ, thì lòng hiếu mới trọn vẹn.
Đói lòng ăn hột chà-là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Đói lòng ăn trái ổi non,
Nhịn cơm nuôi mẹ, cho tròn nghĩa xưa.
Ngày nay chúng ta vẫn còn tiết-kiệm từng miếng ăn, từng mảnh áo, để có ít tiền gởi về cho cha mẹ ở nơi xa. Đáng kính thay lòng hiếu-thảo của người con Việt-nam.
Lòng hiếu của người bình-dân thiết-tha, đậm-đà và thực-tế hơn cảnh cắt thịt của mình cho cha mẹ ăn, hay ôm gốc măng mà khóc như trong Nhị thập tứ hiếu của Nho-gia.
Nếu phải xa nhà vì công việc làm ăn, người chồng dặn-dò người vợ trẻ một vài phương cách phụng-dưỡng mẹ già thay mình.
Liệu mà thờ kính mẹ già,
Đừng tiếng nặng nhẹ, người ta chê cười.
Dù no dù đói cho tươi,
Khoan ăn bớt ngủ, liệu bài lo toan.
4. Hiếu là thành đạt:
Thành-công trong công việc làm ăn, đạt được công-danh qua việc học-hành thi-cử cũng là một hình-thức báo-hiếu, tức là làm rạng-rỡ danh-giá tổ-tiên, nhưng cũng là phương-cách có nhiều tiền để giúp cho việc phụng-dưỡng mẹ cha được chu-đáo hơn, mới gọi là đền ơn cha mẹ cho tròn chữ hiếu.
Ngó lên trời, trời cao lồng-lộng,
Ngó xuống đất, đất rộng mênh-mông.
Biết răng chừ cá gáy hóa rồng,
Đền ơn thầy mẹ ẳm bồng ngày xưa.
Quan-niệm này vẫn còn ảnh-hưởng đến chúng ta cho đến ngày nay. Nhiều phụ-huynh đã khuyến-khích, đã hy-sinh tốn kém cho con-cái học xong bốn năm đại-học. Phần lớn con em chúng ta đạt được cấp bằng tiến-sĩ, cử-nhân đủ mọi ngành. Đó là thành-quả đẹp, khởi đi từ lời ca văng-vẳng từ ngàn xưa:
Con ơi muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thời dệt gấm thêu hoa,
Khi vào canh-cửi, khi ra thêu-thùa.
Trai thời đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh-sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.
Cần-cù chăm-chỉ cấy-cày cũng là hiếu, vì hoa-màu thu-hoạch lại được dùng trong việc phụng-dưỡng mẹ cha:
Em thì đi cấy ruộng bông,
Anh đi cắt lúa để chung một nhà.
Đem về phụng-dưỡng mẹ cha,
Muôn đời tiếng hiếu người ta còn truyền.
Làm ăn được mùa cũng dễ-dàng thực-hiện lòng hiếu-thảo:
Trời cho cày cấy đầy đồng,
Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê.
Một mai gặt lúa mang về,
Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung.
5. hiếu là biết phụng-thờ tổ-tiên
Trứng rồng lại nở ra rồng
Hạt thông lại nở cây thông rườm-rà.
Có cha có mẹ mới có ta,
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng.
Khôn-ngoan nhờ đức cha ông,
Làm nên phải đoái tổ-tông phụng-thờ.
Đạo làm con chớ hững-hờ:
Phải đem chữ hiếu mà thờ từ-nghiêm.
Thờ, ngày xưa còn có nghĩa là phụng-dưỡng cha mẹ với lòng tôn-kính. Ngày nay thờ mang nặng ý-nghĩa tôn-giáo, chỉ dành cho người quá cố.
Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đương đua
Đi về lập miễu thờ vua,
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Đó là những lời ca mẹ ru con ngủ. Nghe mãi nghe hoài con trẻ cũng nhớ vào lòng. Lập trang ở trong nhà để được giữ hình-ảnh mẹ bên cạnh. Còn cha thì thờ ở chùa là nơi công-cộng trong xóm làng, nơi làm sáng danh gia-đình với xã-hội.
Người Việt đi đâu cũng mang theo gia-đình. Ngày trước khi di-cư vào nam, chúng ta mang theo cả gia-đình. Ngày nay di-tản ra hải-ngoại, chúng ta không chỉ mang theo vợ chồng con-cái, mà còn mang theo cả ông bà, cha mẹ.
Thờ cha mẹ, ở hết lòng,
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường.
Phụ mẫu bên anh cũng như phụ-mẫu bên nàng,
Lẽ thường anh cũng phải tạc đá bia vàng để thờ chung.
Một điểm đặc-biệt trong văn-hóa gia-đình Việt-nam là con rể hay con dâu đều gọi cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ là cha mẹ. Cha mẹ hai bên là tứ thân phụ-mẫu. Xem dó là liên-hệ trực-tiếp trong gia-đình. Cha mẹ chồng, cha mẹ vợ đều được gọi là cha me, cùng một từ như cha mẹ ruột. Cha mẹ gọi con dâu hay con gái với một từ chung là con. Từ con do cha mẹ gọi ra không có sự phân-biệt con trai hay con rể. Việc gọi chung từ con, cha, mẹ không thể là sự ngẫu-nhiên của ngôn-ngữ, mà là một điểm son của văn-hóa gia-đình. Việt-nam rất giàu từ-ngữ để chỉ sự khác biệt về sự liên-hệ gia-đình gián-tiếp như: nội-ngoại, bác-bác, chú-thím, cậu-mợ, cô-dượng, dì-dượng, anh-chị ...
Thực-tế có sự khác-biệt về tình-cảm và huyết-tộc giữa cha mẹ ruột với cha mẹ chồng hoặc cha mẹ vợ, nhưng tập-tục và đời sống khi thực-hành chữ hiếu đã nâng tứ thân phụ mẫu ngang hàng với nhau:
Phụ-mẫu thiếp cũng như phụ-mẫu chàng,
Hai bên phụ-mẫu tạc bốn chữ vàng thờ chung.
Ngay cả khi vợ chồng xa nhau rồi, lòng hiếu với cha mẹ đôi bên cũng không hề thay đổi. Đáng cảm-phục thay tình gia-đình của người bình-dân Việt-nam.
Phụ-mẫu tình thâm,
Phu-thê nhân ngãi trọng,
Một mai anh có xa em rồi, em thờ vọng mẹ cha.
Anh đi ghe cá cao cờ,
Ai nuôi cha mẹ, ai thờ tổ-tiên?
Phụng-thờ tổ-tiên là điểm đặc-biệt của văn-hóa Việt-nam. Người bình-dân sống tự-nhiên thoải mái với việc cầu Trời và thờ Ông bà tổ-tiên của mình. Xem việc phụng-thờ ông bà tổ-tiên là lối sống tự-nhiên, là một phương-cách biểu-lộ lòng hiếu-thảo với cha mẹ. Khi cha mẹ, ông bà đã qua đời, hiếu được bày tỏ qua sự tôn-kính phụng thờ:
Công danh hai chữ tờ-mờ,
Lãy gì khuya sớm phụng thờ tổ-tiên.
Khi cha mẹ già yếu thường ở chung với con cái. Khi cha mẹ ốm đau con cái tự tay săn-sóc. Khi cha mẹ lâm-chung con cái thường gần-gũi bên cạnh. Nếu không được như vậy thì ít nhất cũng phải chịu tang. Kim-Trọng từ-giã Thúy-Kiều để về thọ tang cha, Nguyễn đình Chiểu bỏ thi để về chịu tang mẹ.
Chữ rằng: vấn tổ tầm tông,
Cháu con nỡ bỏ cha ông sao đành.
Đau xót nhất là sự chia xa đôi ngả âm dương. Chúng ta từng biết nhiều bài điếu văn xót-xa thắm-thía giữa người ở lại khóc kẻ ra đi. Trong văn-chương bình-dân cũng có vài bài văn tế. Đặc-biệt nhất là bài ca-dao tế mẹ: lời lẽ thiết-tha, ý-tình thống-thiết:
Trời hỡi Trời ! Sao dời vật đổi.
Nên chi cỏ héo hoa sầu !
Kể từ ngày nương tựa lều tranh
Công ơn mẹ kể không xiết kể !
Tuần cay đắng chín trăng có lẻ
Chữ sinh-thành nghĩa mẹ tày non
Bên ướt mẹ nằm bên ráo phần con.
Mẹ nuôi con vuông tròn khôn lớn
Cho con xin đền miếng ngọt mùi ngon.
Nào hay đâu bóng xế đầu non
Trong phút chốc đã phân chia đôi ngả!
Đêm năm canh nghe con ve kêu giục-giã
Ngày sáu khắc nhìn đèn hắt-hiu!
Con đương mơ-màng, sực tiếng mẹ kêu
Muốn tìm mẹ, tìm sao đặng mẹ ?
Ba tấc đất, táng an theo lệ
Tấm lòng thành chưa thỏa lòng con.
Chốn mộ phần con gởi nước non
Một chén rượu ngọt, giã-từ thân mẹ.
Ô hô ! Ai tai ! Phục duy thượng hưởng!
Xa đồng mà không trông thấy ! U hu!
Mai đà hạc lánh hình du
Tây phương đất Phật, mẹ đi không về!
Mồ yên mả đẹp cũng là một hình-thức báo hiếu. Điều này vẫn còn ở trong lòng những người con phải đi lập nghiệp phương xa. Khi điều-kiện kinh-tế cho phép, một trong những việc hiếu đầu-tiên là chỉnh-trang nhà thờ và lăng-mộ tổ-tiên.
Ơn cha ba năm tình thâm lai-láng,
Nghĩa mẹ đậm-đà chín tháng cưu mang.
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.
Biết lấy chi đền nghĩa khó-khăn,
Đôi đứa ta lên non xắn đá, xuống xây lăng phụng thờ.
Việc kỵ-giỗ, chú trọng đến lòng kính-mến nhớ thương. Bàn thờ lạnh-tanh, không hương khói ấm cúng, là điều đau lòng cho con-cái.
Ngó lên nhang tắt, đèn mờ,
Mẫu thân đâu vắng, bàn thờ lạnh tanh.
Ngay cả cổ bàn khi kỵ-giỗ cũng đơn-giản thôi. Đó là những món ăn thân-thiết, bình-dị, dân-dã trong đời sống hằng ngày như rau muống, nước tương mà cô thôn-nữ đã dùng để phụng-dưỡng cha mẹ già.
Nhà em có vại cà đày,
Có ao rau muống, có đày chum tương.
Dù không mỹ-vị cao-lương,
Trên thờ cha mẹ, dưới nhường anh em.
Một nhà vui-vẻ êm-đềm,
Đói no tùy cảnh, không thèm lụy ai.
Chỉ những người giàu sang, mới có cổ bàn đầy xôi thịt:
Cồng-cộc bắt cá dưới bàu,
Cha mẹ mày giàu, đám giỗ đầu heo.
Trong việc thờ phụng hiếu với mẹ cha được xem trọng hơn là nghĩa vợ chồng:
Anh chết ba năm sống lại một giờ,
Để xem người ngọc phụng-thờ ra sao ?
Thờ chàng đĩa muối đĩa rau,
Thờ cha kính mẹ mâm cao cỗ đầy.
Kỵ-giỗ là một phương-cách tuyệt-vời để duy-trì và phát-huy tinh-thần gia-tộc. Trong mùi trầm hương lâng-lâng ngào-ngạt của một lễ giỗ rất dễ cho ta nhận ra tinh-thần ông bà tổ-tiên hiện-hữu qua hìng-dạng, qua phong-cách của chúng ta và của đám con cháu đang quay-quần trước bàn thờ. Vì tính-cách nhân-bản và thiết-thực của việc thờ cúng ông-bà tổ-tiên, mà các tôn-giáo khi du-nhập vào Việt-nam đã dễ-dàng hòa-đồng với niền tin này. Nho, Thích, Lão đã được thờ chung với ông-bà tổ-tiên. Gần đây giáo-quyền Công-giáo đã có tông-thư để giáo-hữu tham-dự hay tổ-chức lễ giỗ ông-bà tổ-tiên. Dù theo tôn-giáo nào, người Việt-nam cũng giữ việc thờ-kính tổ-tiên.