Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ như thế nào?

Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ

2 trả lời
Hỏi chi tiết
1.042
2
0
Nguyễn Thị Thảo
27/02/2020 15:55:52

Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn "sinh ra để viết" (Tế Hanh). Hơn sáu mươi năm cầm bút, ông đã để lại gần hai trăm đầu sách với nhiéu thể loại – truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, hồi kí,… Riêng truyện ngắn, độc giả nhớ nhất và bản thân nhà văn tâm đắc nhất có lẽ vẫn là Vợ chồng A Phủ. Nói về sức cuốn hút của tác phẩm này, người đọc nhắc nhiều đến vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục, tập quán của các dân tộc miền núi; khả năng quan sát tinh tường, lối trần thuật tự nhiên, hóm hỉnh của một người cầm bút từng trải, sắc sảo; tài nghệ phân tích tâm lí nhân vật, vốn ngôn ngữ dồi dào;… Nhưng tôi vẫn nghĩ, điều thú vị nhất là ở chỗ, Tô Hoài đã mang được vào truyện ngắn Vợ chồng A Phủ cái chất thơ riêng của miền Tây Bắc.

Trong cuốn sổ tay viết văn Tô Hoài từng tâm sự về những ý thơ trong văn xuôi: "Vâng, đúng là những ý thơ, đã từ lâu tôi làm, tôi cảm thấy mà chưa phân tích được". Theo ông, những ý thơ đó sẽ làm nên cái giá trị "ngoài tài liệu và trên cả sự sáng tạo". Ở đây, tác giả Sổ tay viết văn đã có sự gặp gỡ với quan niệm của nhiều nhà văn lớn:A.Pu-skin từng ví chất thơ trong văn xuôi như "chất nước ngọt ngào thấm trong trái táo"; L. Tôn-xtôi không chấp nhận ranh giới giữa văn xuôi và thi ca. Thậm chí, K. Pau-tốp-xki còn khẳng định rằng: "Văn xuôi là sợi cốt, còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dãn dắt ta đi đâu cả"… Cũng chính họ – các nhà văn đích thực, bằng tác phẩm của mình, đã giúp cho người đọc hiểu thế nào là chất thơ trong văn xuôi. Đó có thể là những cánh đồng Nga, tâm hồn Nga hiển hiện trên trang văn Pu-skin; là lời thì thầm của cây sồi mùa đông, là hình ảnh người thiếu nữmuốn bay lên cùng ánh trăng (L. Tôn-xtôi) hay giai điệu ngọt ngào, say đắm, nồng ấm tình đời của Âm nhạc Véc-đi, Lắng quả thông(Pau-tốp-xki),… Cũng có thể là khi nhà văn khiến ta nhớ mãi cả mùi cát bụi "quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đấy là mùi riêng của đất, của quê hương này" (Thạch Lam); hay bấy nhiêu ngạc nhiên, cảm động, bâng khuâng, ăn năn, khao khát,… được đánh thức nhờ hương thơm của một bát cháo hành (Nam Cao)… Chất thơ có khi đọng lại trong chi tiết, hình ảnh; có lúc thấm đượm trong bức tranh đời sốnghay lan toả vào câu chữ…

Trở lại với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nếu "đọc vội" cũng có thể thấy được sự phong phú của hiện thực đời sống, đón nhận được niềm cảm thương, trân trọng của tác giả dành cho những phận người cùng khổ ở miền cao Tây Bắc. Các giá trị đó được "tường minh" bằng cốt truyện với sự tương phản quen thuộc của hai phần đời. Lối kể truyền thống, cách xây dựng nhân vật cũng chưa có gì là "đột phá"… Nhưng muốn nắm bắt được những ý thơ toát lên từ cảnh sắc và tâm hồn con người nơi đây, thì có lẽ phải đọc chậm, đọc sâu.

Đọc chậm để các giác quan và trí tưởng tượng có thể "theo kịp" ngòi bút của nhà văn khi vẽ nên quang cảnh Tết đầy khác biệt trên núi cao. Tết ở đây không đến trong làn mưa bụi giăng mù gọi chồi non, lộc nõn; cũng không phải với những rừng đào, rừng mận tưng bừng khoe sắc vẫn mặc nhiên hiện về mỗi khi người ta nghĩ tới mùa xuân Tây Bắc. Nó không về theo lời hẹn trước, không nhất nhất phải đồng hành cùng tháng ấy, ngày ấy trên tấm lịch… Trái lại, người dân vùng núi miền Tây "cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kê ngày tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới". Nhịp sống của con người "hoà thuận" một cách hồn nhiên, tự nhiên cùng nhịp điệu của thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai. Khi "các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho", người được an nhàn, thư thái thì vui chơi đón Tết. Có phải vì thế mà Tô Hoài tả cảnh Tết đến vào lúc "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội", nhưng vẫn gợi được cái không khí náo nức, tươi tắn của mùa xuân? Ngòi bút của nhà văn chỉ phác qua vài sắc màu đậm chất địa phương, vài âm thanh quen thuộc của đời thường cũng đủ khiến lòng người háo hức không kém gì đám trẻ "đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Hình ảnh những chiếc váy hoa "đem ra phơi trên mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ" trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi "lấp ló ngoài đầu núi" mang hương vị độc đáo của mùa xuân Tây Bắc. Tết ở đây gắn liền với những đêm tình nồng nàn, mê đắm: "trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách". Có cả bữa cơm Tết cúng ma, bữa rượu bên bếp lửa, rồi "người nhảy đồng, người hát"… Bằng lối "điểm xuyết" như thế, Tô Hoài dần xoá đi khoảng cách thời gian và không gian, đưa người đọc nhập vào nhịp sống riêng của miền đất này.

Đọc sâu để "đầu và tim" (theo cách nói của Nguyễn Tuân) có thể cảm nhận được cái chất thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do. Một A Phủ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, không họ hàng thân thích mà lớn lên vẫn là chàng trai tài khéo, mạnh mẽ, táo bạo của núi rừng: "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". Dẫu nghèo khó, "Tết đến […] chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác […] chỉ có độc một chiếc vòng vía lằn trên cổ", A Phủ vẫn mang khèn, sáo đi tìm người yêu. vẻ hoang sơ của những cánh rừng, vóc dáng hiên ngang của những ngọn núi miền Tây như đã hun đúc cho chàng trai này tính cách bướng bính, gan góc và lòng ham sống mãnh liệt. Nó trao cho A Phủ sức mạnh để đối mật với bạo lực, cường quyền; vượt lên những nỗi hèn, nỗi sợ truyền kiếp để giành lại cuộc sống tự do…

Chất thơ toả sáng từ tâm hồn Mị – người con gái dẫu đi qua chốn địa ngục trần gian vẫn ấp ủ trong lòng bao xúc cảm đẹp đẽ và nồng ấm tình người. Tôi cứ nghĩ về nhân vật này như cô Tấm miền Tây Bắc – bị đày đoạ đến chết đi sống lại nhưng luôn tiềm tàng sức sống. Diễn biến hai cuộc hồi sinh của tâm hồn Mị xứng đáng được liệt vào hàng những trang văn giàu ý thơ nhất của Tô Hoài.

Cuộc hồi sinh thứ nhất diễn ra trong đêmhội mùa xuân ở Hồng Ngài. Lúc đó, kiếp con dâu gạt nợ ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tài hoa, mạnh mẽ… thành người đàn bà nhẫn nhục, chai sạn trước đau khổ. Cô vẫn sống nhưng đã mất dần những dấu hiệu của một con người: không giao tiếp, không xúc cảm và suy nghĩ, không kí ức, "chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại" như con trâu phải nhớ luốngcày, con ngựa phải nhớ đường đi. Mị mất cảm giác về thời gian, khônggian; mất luôn cả ý thức về sự tồn tại của chính mình. Với cô, thế giới bên ngoài chỉ còn là một ô vuông bằng bàn tay "mờ mờ trăng trắng" không biết là sương hay là nắng, là sáng hay là chiều. Mị cũng nghĩ mình sẽ lặng lẽ "ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi"… Nhưng bất chấp số phận cay đắng, nghiệt ngã, trái tim Mị vẫn âm thầm gìn giữ niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc. Khi đau khổ xoá mờ kí ức, Mị vẫn không quên giai điệu ngọt ngào, tha thiết của tiếng sáo gọi bạn tình. Nó quấn quýt, vương vấn, thức tỉnh, nâng đỡ, chắp cánh cho tâm hồn Mị: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi […] Tai Mị vãng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng […] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường […] Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo…". Tiếng vẫy gọi của tình yêu đã làm sống dậy những cảm xúc và kỉ niệm Mị từng chôn vùi, quên lãng Người đàn bà câm lặng suốt bao năm tháng giờ đây đang ngồi "nhẩm thầm bài hát" của người thổi sáo. Từng câu hát nồng nàn, tình tứ gọi về trong tâm tưởng những tháng ngày hạnh phúc, tươi sáng nhất: "Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lácũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị". Trong khoảnh khắc, Mị vượt qua mọi khoảng cách của thời gian, không gian, băng qua ranh giới của quá khứ và hiện tại để trở về sống trọn với tuổi thanh xuân tươi đẹp. Tâm hồn Mị đã hồi sinh. Cô lại ý thức được về bản thân mình, cảm nhận được nguồn sức sống đang trào dâng: "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ". Người phụ nữ đang chết mòn trong tuyệt vọng lại muốn được sông cuộc sống có niềm vui, có tự do: "Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi". Trái tim cô không còn "quen khổ" nữa mà thấm thìa hơn bao giờ hết nỗi bất hạnh của đời mình: "Huống chi A sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra". Cảm biết được nỗi đau, biết phẫn uất – Mị trở lại là người con gái mạnh mẽ, giàu tinh thần phản kháng của ngày xưa! Kể từ giây phút "đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn", Mị đã biến thành một con người khác. Cô không chỉ khơi ngọn đèn làm sáng căn buồng mờ tối mà còn thắp lên ngọn lửa của tình yêu cuộc sống trong chính lòng mình! Đi chơi Tết đối với Mị chính là một hành động "nổi loạn" để chấm dứt kiếp tù nhân, giành lại quyền được sống như một con người. Thậm chí, cá lúc bị A Sử trói đứng vào cột nhà, lòng MỊ vẫn nồng nàn, tha thiết nhớ, vẫn đắm trong tiếng gọi yêu thương; tiếng sáo "đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi"… Khát vọng tình yêu và hạnh phúc đã là nguồn sức mạnh kì diệu nuôi dưỡng tâm hồn MỊ.

Cuộc hồi sinh lần thứ hai đã không được báo trước bằng bất kì "tín hiệu" nào (như không khí tưng bừng của mùa xuân, men rượu say nồng bên bếp lửa hay tiếng sáo gọi bạn tình,…). Nó đến bất chợt, bất ngờ – với người đọc và với cả chính bản thân Mị. Bởi vì, sau đêm bị trói đứng, Mị rơi vào cái chết tinh thần nặng nề, đau đớn. Người phụ nữ cô đơn, bất hạnh ấy đã hoàn toàn tách biệt với xung quanh "chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Cô không còn tìm được chút hơi ấm nào từ cuộc sống. Mị bám víu lấy bếp lửa không chỉ vì cái lạnh của những đêm đông trên núi cao mà còn vì sự buốt giá của lòng mình: "nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần". MỊ thờ ơ, vô cảm với chính mình và với mọi sự xung quanh. Có đêm, A Sử bắt gặp, đánh MỊ ngã ngay xuống cạnh bếp nhưng đêm sau cô vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Tôi có cảm giác nếu A Sử đánh chết Mị bên bếp lửa, thì cô cũng sẽ lặng thinh và thờ ơ như thế. Thân còn chẳng thiết) nên khi tận mắt chứng kiến cảnh tượng A Phủ chết dần trong đói rét, đau đớn, Mị vẫn dửng dưng: "Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi"!

Miêu tả cái chết tinh thần ấy, Tô Hoài đã tự đặt mình trước một thử thách lớn. Làm sao nhà văn lại khiến người đọc tin rằng, từ trạng thái vô cảm kia, Mị có thể thức tỉnh, cắt dây trói củaA Phủ và tự cứu chính mình? Làm sao ông có thể tìm được "chìa khoá" để mở lại cánh cửa của một cõi lòng đã đóng chặt và cơ hồ đã chết? Vì thế, không ít lần tôi ngẫm đi ngẫm lại cái câu văn tả "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại" của A Phủ. Không phải là nước mắt khiếp sợ của kẻ hèn nhát hay giọt lệ van xin, cầu khẩn lòng thương hại. Dòng nước mắt kia chất chứa nỗi đau đớn, uất hận thầm lặng mà dữ dội của một con người tràn đầy sức mạnh, có thừa lòng can đảm mà đành bất lực trước cái chết oan ức, phi lí. Nó đập mạnh vào trái tim Mị – trái tim dường như chỉ còn nỗi đau. Cô bừng tỉnh trong mối đồng cảm sâu xa với người cùng chung cảnh ngộ đau thương, uất hận: "Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước. A Sử trói Mị, MỊ cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được". Lúc trước, miêu tả cảnh Mị bị trói đứng, Tô Hoài nhắc nhiều đến những đau đớn vé thể xác: "tay chân đau không cựa được […] khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức […] cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt […] Sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã sụp xuống […] Mị quên cả đau, đứng lên. Nhưng không nhích chân lên được". Nỗi đau thể chất này, thời gian có thể làm nhoà đi nhưng nỗi đau tinh thần kia thì vẫn hằn sâu trong tâm trí, khi con người bị tước đoạt đến cả cái quyển đưa tay lên lau những giọt nước mắt của chính mình! Từ chỗ biết thương mình, trong lòng Mị dâng lên nỗi xót xa, thương cảm cho bao kiếp người bị đày đoạ: "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bất mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này". Cùng với tình thương, trong lòng MỊ sống dậy cả lòng căm thù, sự phẫn nộ: "Chúng nó thật độc ác". Với A Phủ, Mị chia sẻ nỗi đau đớn bằng cả trái tim vì chính cô đã từng biết thế nào là "chết đau, chết đói, chết rét, phải chết" trên cây cột trói người. Đột nhiên, nhưng cũng là tự nhiên, tất yếu với một con người giàu "năng lực" yêu thương, Mị xót xa cho A Phủ hơn chính bản thân mình: "Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế".Trong khoảnh khắc, người con gái có tâm hồn trong sáng, nhân hậu của ngày xưa đã lại trở về! Bấy nhiêu cảm xúc trỗi dậy khiến MỊ không cảm thấy sợ hãi cả khi tưởng tượng mình phải trói thay A Phủ. Bằng sức mạnh của tình yêu thương, sự đồng cảm, lòng vị tha, Mị đã vượt lên nỗi sợ cường quyền, cắt dây trói cứu A Phủ, để rồi lòng ham sống mãnh liệt lại giúp cô vượt qua nỗi ám ảnh thần quyền, tự cứu chính mình… Vẫn là cái quy luật muôn thuở của tình người bất diệt "Thương người như thổ thương thân", nhưng qua ngòi bút Tô Hoài, nó đã mang đậm sắc màu riêng của tính cách, tâm hồn con người Tây Bắc – chân chất, mộc mạc mà nồng nàn, sâu sắc; lặng lẽ mà quyết liệt trong khát vọng sống, khát vọng tự do.

Những ý thơ trong Vợ chồng A Phủ cũng gắn liền với một Tô Hoài đặc biệt chú trọng đến chuyện "tinh thông về chũ". Ông từng tâm niệm và ao ước: "Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà có". Tôi đã thấy những "hạt ngọc" như thế lấp lánh trong Vợ chồng A Phủ. Công phu dùng chữ của tác giả hiện rõ qua lời kể, lối miêu tả, nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật,… Từ đối thoại, độc thoại đến những đoạn ngôn ngữ nửa trực tiếp,… chưabao giờ thấy gợn lên sự thiếu hài hoà giữa lai lịch, vốn sống, tâm trạng và tính cách,… với lời ăn tiếng nói của nhân vật. Có những câu nói chỉ bớt đi một từ thôi (chúng tôi in đậm), nó đã không còn là cách nói riêng của người miền cao – mộc mạc, đầy hình ảnh và cảm xúc chân thật, tự nhiên: lời khen ngợi A Phủ của các cô gái trong làng: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà"; lời của người cha già hiểu con, thương con mà đành bất lực: "Mày về lạy chào tao để mày đi chết đấy à? […] Không được, con ơi!" hay tiếng vọng đau đớn vang lên từ tâm trí Mị, nhắc nhở về nỗi tủi nhục, cay đắng đến tận cùng của kiếp nô lệ: "Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được"… Màu sắc địa phương đậm đà ấy đã góp phần không nhỏ làm nên vẻ sinh động, độc đáo của các nhân vật.

Tác giả Vợ chồng A Phủ cũng sáng tạo nhiều kiểu câu văn giàu nhịp điệu "như biết co duỗi nhịp nhàng" (Nguyễn Tuân). Có kiểu câu với cấu trúc tầng lớp, trùng điệp các vế, thường được dùng để miêu tả các sự kiện kéo dài, lặp lại, triền miên, nặng nề: tả kiếp đàn bà như con trâu con ngựa "chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi" trong nhà thống lí ("Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi"); tả cảnh hành hạ người dã man, quái gở ("Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút"),… Có kiểu câu ngắn, dồn dập, diễn tả những biến động bất ngờ: "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. […] Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh". Những cấu trúc mới lạ, phong phú đan xen, phối hợp với nhau một cách linh hoạt mang dến cho lời vãn tính đa thanh, phức điệu.

Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài giàu chất thơ, chất hoạ. Không thiếu những đoạn văn, đọc lên, ngỡ như mình đang đứng trước một bức tranh hay đang xem một trường đoạn phim với góc quay thật rộng: "Hai người đi liền hơn một tháng. Họ đi chuyền trên những triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy ở trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. […] A Phủ làm nhà thèo đảnh ra một ngọn đồi gianh. Những ngày quang trời trông thấy dòng sông và cánh đồng Bản Pe có ruộng xoènhư cánh quạt". Gần rồi xa, cao và thấp, diện và điểm, đậm xen nhạt, khi thì sắc nét như ở ngay trước mặt, lúc lại thấp thoáng mơ hồ như ở ngoài tầm mắt; vừa trải rộng với những nét vẽ sông, suối mềm mại, đã lại sừng sững thu về trong dáng núi gân guốc, hùng vĩ… vượt suối, băne rừng mà thấy được hành trình và khát vọng đi tìm cuộc sống tự do. Tái hiện khung cảnh thiên nhiên mà gợi được vẻ đẹp mạnh mẽ, phóng khoáng, lãng mạn của hồn người…

Những ý thơ trong Vợ chồng A Phủ được tạo nên bằng ngòi bút của một người "thợ chữ" tài hoa và kiên tâm trên con đường sáng tạo. Phải nói đến cả tình cảm gắn bó thắm thiết, sâu nặng của nhà văn: "thiên nhiên và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không bao giờ quên" (Tô Hoài). Không chỉ nhà văn, mà cả người đọc cũng muốn nói lời tri ân núi rừng, sông suối và con người Tây Bắc – nguồn "nguyên liệu" thấm đẫm chất thơ! Tô Hoài đã trả được món nợ ân tình đó khi truyền cho người đọc những rung cảm sâu xa với cảnh, với người. Ông cũng đã thực hiện được điều mà mọi nhà văn đều mong ước: "trong văn xuôi, cần phải đượm hồn thơ, có như thế vãn xuôi mới trong sáng cất cao"

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
1
Bùi Thu Hà
27/02/2020 16:05:38
CHẤT THƠ TRONG VĂN XUÔI
Theo lí luận văn học Mác – xít, một tác phẩm văn học bất kỳ không nằm ngoài ba phương thức – thể loại: trữ tình, tự sự và kịch. Tác phẩm văn học nếu không là thơ thì sẽ là văn xuôi (văn xuôi nghệ thuật – phân biệt với văn xuôi chính luận và các dạng văn xuôi khác không cùng khái niệm “văn học”) hoặc kịch. Cái nhìn phân xuất của lí luận là như vậy. Nhưng trên thực tế, đã, đang và sẽ tiếp tục hình thành những tác phẩm mà ở đó có sự kết hợp, trộn lẫn, xuyên thấm giữa những yếu tố hình thức và “cái nhìn bên trong” của các thể loại khác nhau, ở những mức độ đậm nhạt nhất định, và cho ra đời những sản phẩm “là nó, nhưng đồng thời không chỉ là nó” khá đặc sắc. Ở đây, ta xét tới khía cạnh hiện tượng thâm nhập của thơ đến lãnh địa của văn xuôi, hay nói một cách cụ thể là khảo sát chất thơ trong tác phẩm văn xuôi.

Pha-đê-ép từng nói: “Văn xuôi cần phải có cánh. Đôi cánh ấy chính là thơ”. Tolstoy từng thốt lên: “Tôi không bao giờ hiểu đâu là ranh giới giữa văn xuôi và thi ca”. Paustovsky, trong “Truyện cuộc đời”, từng bộc bạch: “Tôi đã nhìn thế giới xung quanh qua tấm lăng kính trong suốt của thơ” và với ông, “văn xuôi là sợi cốt còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi không đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả”. Còn Puskin hay nhắc tới khái niệm “văn xuôi chân chính”, đó là thứ văn chương “bao giờ cũng có tiết tấu của nó”, “bao giờ cũng thấm đượm chất thơ như chất nước ngọt ngào thấm trong trái táo”. Như vậy, trong quan niệm sáng tác của các nhà văn, chất thơ không đơn giản chỉ là sự trang trí, một thứ trang sức làm lộng lẫy cho văn xuôi mà chính nó là một phẩm chất bắt buộc của văn xuôi. Bởi đó, chất thơ trở thành chiếc cầu nối mềm mại đưa văn xuôi thấm vào hồn người êm ái và dịu dàng hơn bao giờ hết.

Hiểu theo nghĩa rộng, chất thơ phải gắn với cái đẹp. Nói như giáo sư Đỗ Lai Thúy, đó có thể là cái đẹp tự nhiên “như cảnh mây trắng nhởn nhơ bay trên bầu trời xanh thẳm” hay chất thơ được tạo ra từ những tình cảm, hành động của con người “như sự nhớ nhung, sự uyển chuyển của các điệu múa”… Khi nói đến chất thơ, người ta cũng thường có thói quen nghĩ ngay đến những cái gì đẹp, thơ mộng, lý tưởng và bay bổng như một phong cảnh nên thơ, một tâm hồn thơ mộng. Người ta ít nghĩ hơn đến chất thơ trong những cảnh đời lam lũ, mệt nhọc hay những cảnh tưởng bề bộn, tăm tối. Quan niệm ấy tuy có phần đúng nhưng không đủ và có tính chất hẹp hòi. Trong cuộc sống, không phải mọi đối tượng, mọi cảnh ngộ và sự việc đều nên thơ như nhau nhưng cũng không thể xác định rằng có đối tượng nên thơ và đối tượng không nên thơ. Vấn đề là ở mức độ và phân lượng khác nhau, và quan trọng chính là ở sự phát hiện. Biết phát hiện ở đối tượng khách quan phần nên thơ của nó, cung cấp cho nó một hình dáng, một cách giải thích, một lý tưởng đẹp, đó chính là nhiệm vụ của văn chương nghệ thuật. Chính vì vậy, chất thơ trong nghệ thuật bao gồm sự thống nhất giữa những phẩm chất của đối tượng khách quan với cảm hứng sáng tạo chủ quan của nhà thơ. Thực tế khách quan được chọn lọc ở những mặt kết tinh tiêu biểu, ở những chi tiết và hình ảnh chân thực là tiền đề trực tiếp nhất để tạo nên chất thơ trong tác phẩm.

CHẤT THƠ TRONG TÁC PHẨM
Chất thơ trong sáng tác của Tô Hoài hiện lên trước hết qua hình ảnh thiên nhiên vời vợi với những núi non, nương rẫy, sương giăng… không thể lẫn được với một nơi nào trên đất nước ta. Những chi tiết miêu tả thiên nhiên đan xen, hoà quyện trong lời kể của câu chuyện. Có khi, chỉ một vài điểm nhấn, tác giả đã phác ra được cái nét rất riêng của đối tượng. Những ngày sống trong căn phòng ngột ngạt, tù túng của mình ở nhà thống lí Pá Tra, Mị nhìn ra trời qua khung cửa sổ bé bằng bàn tay, lúc nào Mị cũng “chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Không gian ấy chỉ có thể tìm được ở Tây Bắc bởi núi rừng trùng điệp. Ban ngày, ánh mặt trời cũng khó có thể xua tan những màn sương giăng trắng làng bản. Đêm xuống, sương đêm hoà với ánh trăng tạo nên thứ không gian huyền ảo như trong ảo mộng. Đặc biệt, nhà văn đã có những câu văn thật hay nêu bật được hình ảnh đặc trưng về thiên nhiên Tây Bắc những ngày giáp Tết: “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho”, “trẻ con đốt những lều canh nương”, “gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy hoa đã đem phơi trên những mỏm đá xoè như con bướm sặc sỡ, gió và rét rất dữ dội”. Những câu văn mang đầy “ý thơ” đã lột tả được hồn cốt thiên nhiên Tây Bắc với núi rừng trùng điệp, cao rộng vời vợi. Điểm vào cái nền thiên nhiên xanh mướt ấy là những dấu ấn của con người: những nương lúa, nương ngô uốn lượn trên sườn đồi sườn núi; những đống lửa bốc lên từ các lều canh nương; những đám cỏ gianh vàng ửng; những chiếc váy hoa xoè rực rỡ nhiều màu sắc của những cô gái H’mông là điểm nhấn đầy thi vị cho bức tranh thiên nhiên ấy.

Chất thơ còn được nhận ra bởi đời sống sinh hoạt, phong tục tập quán của con người nơi đây. Đọc truyện, ta rất dễ bắt gặp những hình ảnh thường xuyên xuất hiện trong đời sống hằng ngày của đồng bào Tây Bắc. Đó là ngôi nhà gỗ với bếp lửa đặt trong nhà suốt mùa đông không tắt hòn than, là những công việc hằng ngày như cõng nước, cắt cỏ cho ngựa ăn, quay sợi,… Trang phục đặc trưng của người phụ nữ H’mông vùng cao này là váy xoè sặc sỡ đi kèm với những chiếc vòng bạc lấp lánh.
Truyện cũng miêu tả rất tinh tế một phong tục rất đẹp, rất thơ của đồng bào vùng cao là lễ hội mùa xuân. Tết của người vùng cao không giống tết ở miền xuôi. Người vùng cao có cách tính ngày Tết rất độc đáo thể hiện thuần túy tư duy nông nghiệp. Họ ăn tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Và dù cái Tết năm ấy đến Hồng Ngài “giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội” cũng không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau. Không khí ngày xuân của Hồng Ngài mang những dấu ấn đặc trưng đậm hương vị núi rừng Tây Bắc: Mùa xuân đến, trai gái tìm đến nhau để tỏ tình. Họ bận những bộ quần áo đẹp nhất. Họ chơi ném còn, chơi quay, thổi sáo, đàn môi, uống rượu,… Tất cả đều mê mải, say sưa trong tiếng sáo dìu dặt, tình tứ.

Tô Hoài đã đặc tả không khí ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình, qua đó hiện lên bức tranh ngày tết miền núi tràn ngập màu sắc và âm thanh: “Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ [...] Đám trẻ đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Ông cũng đặc biệt chú trọng đến phong tục của họ qua con mắt tò mò, hóm hỉnh của mình: “Trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên núi từng đoàn”, “Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn”.

Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng: “Anh ném pao, em không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Đó là phương tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai đối với con gái trong bản làng. Trong “Vợ chồng A Phủ”, ngòi bút Tô Hoài cũng tỏ ra rất thành công khi lột tả được nét đặc trưng, lột tả được “cái hồn” của tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sao rủ bạn đi chơi”,  “Tiếng sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh”. Tiếng sáo còn là cách tỏ tình đặc biệt của người con trai miền núi: “Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Thời gian cứ tiếp nối, những ngày tết vùng cao và đêm tình mùa xuân của ngày xưa và ngày sau dường như vẫn thế. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua thời gian, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim biết bao chàng trai cô gái miền sơn cước.

Bên cạnh những phong tục đẹp đẽ thể hiện tâm hồn thuần phác, nồng hậu của đồng bào Tây Bắc là những phong tục còn mông muội, chứa nhiều điều bất công vẫn còn tồn tại ở Tây Bắc những năm trước Cách mạng. Đó là sự phân chia đẳng cấp giàu – nghèo rất rõ. Trang phục của con nhà giàu cũng có những dấu hiệu khác: “Rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ mà chỉ riêng con cái nhà quan trong làng mới được đeo”. Đó là tục bắt vợ, cúng ma trình vợ đầy mê tín. Cái hủ tục lạc hậu ấy đã trở thành một thứ thần quyền ghê gớm án ngữ tư tưởng của người lao động nơi này, khiến họ luôn bị bóng đêm của sự mông muội đè nén, giày xéo không sao ngẩng đầu lên được. Đó là cái lệ đi ở trừ nợ: “bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Đặc biệt, hình ảnh ngôi nhà gỗ nghi ngút khói thuốc phiện với bữa tiệc phạt vạ được miêu tả trong câu chuyện không thể tìm thấy được ở vùng đất nào khác. Tài năng của nhà văn tập trung trong việc quan sát, dựng cảnh sắc sảo cảnh xử kiện nhà thống lí Pá Tra. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn, hủ tục, lề lối, sự tàn bạo, dã man của thế lực phong kiến miền núi đã được lột tả hết sức sinh động: “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ… Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút. […] Ngoài nhà vẫn rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như những con mọt nghiến gỗ kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể lào xào, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch”. Phải thấm thía cảnh sống đau đớn, tủi nhục như thế, ta mới cảm nhận được hết sức mạnh “cởi trói” tựa như bản năng sinh tồn mãnh liệt của những thân phận bị chà đạp.

Tóm lại, nghệ thuật miêu tả sinh hoạt và phong tục của nhà văn đã giúp người đọc có thêm nhiều hiểu biết phong phú về đời sống của đồng bào Tây Bắc. Trong truyện ngắn này, bằng vốn hiểu biết phong phú và khả năng quan sát tinh tế, tác giả đã khắc hoạ lại được những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, thể hiện được nhiều phong tục độc đáo và miêu tả sinh động những người H’mông hồn nhiên, ngay thẳng. Từ cảnh xuân trên bản đến cảnh vui chơi trong ngày Tết, cảnh xô xát giữa hai đám thanh niên đến cảnh xử kiện,… tất cả đều được phác hoạ sống động, tài tình, tạo nên phong vị đặc trưng của vùng núi Tây Bắc cụ thể, xác thực.

Nét đặc sắc nhất của chất thơ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” biểu hiện ở tâm hồn nhân vật Mị. Ẩn sâu trong tâm hồn Mị, một cô gái tưởng chừng như héo hắt, sống một cuộc đời lầm lũi “đến bao giờ chết thì thôi” ấy, có ai ngờ, vẫn le lói những đốm lửa của khát vọng tự do, của tình yêu cuộc sống. Ở nhà thống lí Pá Tra, Mị có cái vẻ ngoài âm thầm chịu đựng nhưng bên trong, kỳ thực, đó lại là một sức sống tiềm tàng, rạo rực. Đúng như Tô Hoài đã nói: “Ở nơi rừng núi mơ màng ấy, các dân tộc đã không lặng lẽ chịu đựng”. Tính nhân văn trong câu chuyện là đây. Chất thơ đặc biệt được tác giả tạo nên là đây. Đó là khi nghe tiếng sáo gọi bạn trong những đêm tình mùa xuân vọng về, lòng Mị lại “thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo giao duyên ấy chạm vào phần sâu kín nhất của tâm hồn Mị, phần tâm hồn rạo rực của cô gái trẻ ngỡ như đã chết đi khi cô mang thân phận con dâu trừ nợ nhà thống lí Pá Tra. Tiếng sáo giao duyên ấy đã dẫn lối tâm hồn Mị trở về với ký ức của những ngày tự do xưa: “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Và tiếng sáo giao duyên ấy thức tỉnh tâm hồn Mị: “Mị thấy phơi phói trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi…”. Đến đây, ta chợt nhớ lại một câu châm ngôn rằng: “Cái chết không phải là mất mát lớn nhất trong cuộc sống. Mất mát lớn nhất chính là ta để tâm hồn mình lụi tàn ngay cả khi còn sống.” Mị, từ một nhân vật sống không bằng chết, nay đã sống lại trong tâm hồn. Và khi tâm hồn Mị không lụi tàn chính là khi sức sống tiềm tàng, rạo rực trong Mị chỉ chờ cơ hội đến là trỗi dậy mạnh mẽ. Như vậy, trong quá trình xây dựng nhân vật Mị với một cuộc đời đầy bi kịch, nhà văn Tô Hoài đã thật khéo léo thêm vào nhân vật mình một nét tâm hồn rất “thơ” và giàu tính nhân văn. Dù viết về mảng đề tài bi kịch trong cuộc sống của con người, những trang văn của Tô Hoài vẫn thấm đượm chất thơ. Chất thơ ấy chứa đựng trong nỗi khát khao mãnh liệt về một tương lai tốt đẹp, tươi sáng cho mỗi con người.

Làm nên chất thơ của “Vợ chồng A Phủ” không thể không nhắc đến ngôn ngữ nghệ thuật của nhà văn với hàng loạt các âm thanh, các hình ảnh gợi hình, gợi cảm rất nên thơ và đậm màu sắc. Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài ngoài cái ý nghĩa cụ thể trong từng câu chữ còn có một cái vô hình khó chỉ ra nhưng hoàn toàn có thể cảm thấy, đó chính là giọng điệu, là âm điệu câu văn cùng tiết tấu nhịp nhàng của nó. Tiết tấu đó chính là sự thể hiện những điệu tâm hồn, những cung bậc khác nhau trong tình cảm của nhà văn. Những điều này sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau, khi phân tích về nghệ thuật trần thuật của tác phẩm.

Tóm lại, chất thơ trong văn xuôi của Tô Hoài được tạo nên bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn cái khí sắc lãng mạn với bút pháp trữ tình cùng cái duyên mượt mà của một văn phong điêu luyện. Đó là kết quả từ việc nhà văn vận dụng các loại hình nghệ thuật như hội hoạ, âm nhạc vào nghệ thuật viết văn; là kết quả của sự cộng hưởng giữa thơ ca và văn xuôi. Chất thơ say đắm lòng người không chỉ ở vẻ đẹp huyền diệu của thiên nhiên mà còn ở những cung bậc cảm xúc trong tâm hồn con người. Bên cạnh nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, Tô Hoài còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi khả năng diễn đạt tài tình những rung động sâu xa, tinh tế trong thế giới đa cung bậc và muôn vàn sắc thái của tình cảm. Cảm thức tinh tế của Tô Hoài trong việc nắm bắt và tái hiện sự biến chuyển của màu sắc, âm thanh, ánh sáng, mùi vị trong thiên nhiên là một trong những yếu tố tạo nên bầu không khí trữ tình, trong trẻo, đẹp đẽ bao quanh thế giới nghệ thuật truyện ngắn Tô Hoài. Nhịp điệu, chất nhạc trong văn xuôi Tô Hoài bắt rễ từ vốn hiểu biết tinh tường về ngôn ngữ mẹ đẻ, những trực cảm tinh tế về ngôn ngữ. 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư