Song, ý nghĩa thực tiễn của học thuyết đó không phải chỉ là như thế. Ngày nay, từ quan niệm đổi mới về chủ nghĩa xã hội, học thuyết này còn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ để thấy được những điểm mới của học thuyết này trong xã hội ngày nay và vận dụng học thuyết vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1. Nội dung học thuyết giá trị thặng dư trong bộ Tư bản của Các Mác
C.Mác đã hoàn chỉnh lý luận giá trị thặng dư sau khi lấy điểm xuất phát là đi từ lý luận giá trị, giá trị thị trường (giá trị trao đổi) và giá cả. Sở dĩ như vậy là vì giá trị là cơ sở của giá trị thặng dư. Phủ nhận lý luận giá trị cũng đồng nghĩa với phủ nhận lý luận giá trị thặng dư và ngược lại.
Trước hết, C.Mác nghiên cứu sự chuyển hóa của tiền thành tư bản (trình bày trong C.Mác và Ăngghen Toàn tập, phần 2, quyển 1, tập 23). Thông qua sự phân tích phân biệt tiền thông thường và tiền là tư bản từ hai công thức: H-T-H và T-H-T’, Mác khẳng định: Tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử dụng để bóc lột lao động của người khác [1, 76]. Gọi là công thức chung của tư bản vì mọi tư bản dù kinh doanh trong ngành nào (công nghiệp, thương nghiệp, ngân hàng…) đều vận động theo công thức chung. Bất cứ tiền nào vận động theo công thức T-H-T đều được chuyển hóa thành tư bản. Do mục đích của lưu thông hàng hóa giản đơn là giá trị sử dụng nên vòng lưu thông chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử dụng mà người đó cần đến. Còn mục đích lưu thông của tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy, nếu số tiền thu bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vô nghĩa. Do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động, đầy đủ của tư bản là: T-H-T’, trong đó T’= T + ∆T. ∆T là số tiền vượt trội hơn so với số tiền ứng ra, C.Mác gọi là giá trị thặng dư. Vậy, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là không có giới hạn.
Sau khi đưa ra công thức chung C.Mác phân tích là trong lưu thông hai trường hợp: ngang giá và không ngang giá, kể cả gian lận trong mua bán đều không làm tiền tệ lớn lên (đều không sinh ra ∆T). Và từ đây, C.Mác chỉ ra mâu thuẫn của công thức chung tư bản: “Vậy là tư bản không thể xuất hiện tư lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông” [2, 216]. Và C.Mác đã giải quyết mâu thuẫn đó xuất phát từ yếu tố H, H chia thành ba loại: Hàng hóa tư liệu sản xuất, hàng hóa tư liệu tiêu dùng và hàng hóa sức lao động, áp dụng phương pháp loại trừ dần và tìm ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó, nguồn gốc sinh ra ∆T và làm cho T lớn lên. C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có đủ hai điều kiện tiền đề:
Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động của mình và có quyền đem bán cho người khác. Vậy người có sức lao động phải có quyền sở hữu sức lao động của mình.
Hai là, người lao động phải bị tước hết tư liệu sản xuất để trở thành người vô sản và bắt buộc phải bán sức lao động vì không còn cách nào khác để sinh sống.
Cũng như những hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để nuôi sống người công nhân, vợ con anh ta; những yếu tố tinh thần, dân tộc, tôn giáo của người công nhân, những chi phí đào tạo người công nhân.
Giá trị hàng hóa sức lao động giống giá trị hàng hóa thông thường ở chỗ: Nó phản ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau căn bản: Giá trị của hàng hóa thông thường biểu thị hao phí lao động trực tiếp để sản xuất hàng hóa nhưng hàng hóa sức lao động lại là sự hao phí lao động gián tiếp thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. Còn hàng hóa sức lao động ngoài yếu tố vật chất, nó còn có yếu tố tinh thần, lịch sử, dân tộc, tôn giáo, yếu tố gia đình và truyền thống, nghề nghiệp mà hàng hóa thông thường không có.
Cũng giống như các hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động có khả năng thỏa mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua. Nhưng giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có thuộc tính đặc biệt, nó khác hoàn toàn với hàng hóa thông thường ở chỗ: Khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó thì không những không bị tiêu biến theo thời gian về giá trị và giá trị sử dụng mà ngược lại nó tạo ra một lượng giá trị mới c + m (c + m > v), với v là giá trị sử dụng của bản thân nó. Khoản lớn lên được sinh ra trong quá trình sử dụng sức lao động chính là ∆T hay giá trị thặng dư (ký hiệu “m”).
Từ đó Mác kết luận: Hàng hóa sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị, hơn thế nữa là tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Và quá trình sản xuất giá trị thặng dư được thực hiện như thế nào?
Mác cho rằng: Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên [3, 244]. Song, để sản xuất ra giá trị thặng dư thì trước hết nhà tư bản phải sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó, vì giá trị sử dụng là vật mang giá trị và giá trị thặng dư. Như vậy, quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động công nhân làm thuê. Vì vậy, C.Mác viết “Với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất là quá trình sản xuất hàng hóa”.
Quá trình sản xuất trong xí nghiệp tư bản đồng thời là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động và tư liệu sản xuất mà nhà tư bản đã mua nên có hai đặc điểm:
Một là, người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu nhà tư bản chứ không thuộc về công nhân.
C.Mác đã lấy việc sản xuất sợi của một nhà tư bản ở nước Anh làm ví dụ để nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Phương pháp giả định khoa học mà C.Mác đặt ra để nghiên cứu là: Không xét đến ngoại thương; giá cả thống nhất với giá trị; toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đem tiêu dùng chuyển hết một lần vào giá trị sản phẩm và chỉ nghiên cứu trong kinh tế tái sản xuất giản đơn. Từ các giả định này, C.Mác đưa ra một loạt các giả thiết để nghiên cứu:
Nhà tư bản muốn sản xuất 10kg sợi đã mua 10kg bông, giá 1$/kg bông, để biến số bông đó thành sợi người công nhân phải lao động trong 6 giờ, giá trị sức lao động là 3$/ngày, ngày lao động là 12 giờ, mỗi giờ lao động người công nhân tạo ra 1 lượng giá trị là 0,5$ và hao mòn máy móc là 2$.
Nếu công nhân chỉ lao động cho nhà tư bản 6 giờ thì chi phí nhà tư bản ứng ra là 15$ và giá trị của sản phẩm mới (10kg sợi) bán đi thu được 15$, nhà tư bản không thu lợi gì, tiền chưa biến thành tư bản. Nhưng trước khi mua sức lao động nhà tư bản đã tính đến trả tiền mua sức lao động trong 1 ngày và việc sử dụng sức lao động trong ngày đó là thuộc quyền nhà tư bản.
Từ sự nghiên cứu trên rút ra một số nhận xét:
Thứ nhất, khi phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20kg sợi), chúng ta thấy có hai phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của công nhân mà được bảo tồn và di chuyển vào sản phẩm mới, gọi là giá trị cũ (24$).
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình sản xuất gọi là giá trị mới (6$), phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.
Từ đó, C.Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư: “Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra mà nhà tư bản chiếm không” [3, 232].
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị kéo dài vượt khỏi giới hạn tại một điểm mà giá trị sức lao động được trả ngang giá.
Thứ hai, ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần:
Phần thời gian lao động cần thiết: phần ngày lao động mà công nhân tạo ra lượng giá trị ngang với giá trị sức lao động của mình (3$), lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động cần thiết.
Phần thời gian lao động thặng dư: tạo ra giá trị thặng dư (3$) và bị nhà tư bản chiếm không, lao động trong khoảng thời gian đó gọi là lao động thặng dư.
Thứ ba, qua nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư cho thấy mâu thuẫn công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hóa tiền thành tư bản diễn ra trong lưu thông, đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó. Chỉ có trong lưu thông nhà tư bản mới mua được thứ hàng hóa đặc biệt, đó là hàng hóa sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hóa đặc biệt đó trong sản xuất, tức là ngoài lưu thông để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Từ đó tiền của nhà tư bản mới trở thành tư bản.
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó giai cấp tư sản đã không từ bất cứ thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối.
Một là, phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối.
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối thời gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian lao động cần thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá trị thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200% (m’ = 200%).
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản. Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản, mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hóa, nhưng nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngoài thời gian công nhân làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người công nhân đòi hỏi phải có thời gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hóa đặc biệt, vì vậy ngoài yếu tố vật chất, người công nhân đòi hỏi còn phải có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình. Từ đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phái rút ngắn thời gian lao động trong ngày.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai là, phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại giả thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường hợp đó cũng không đổi. Khi đó thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc lột của nhà tư bản lúc này là 300% (m’ = 300%).
Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và công nghệ vào trong quá trình sản xuất để nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị trường của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong những ngành, những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân. Từ đó tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu. Hai phương pháp trên được các nhà tư bản sử dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.
Giá trị thặng dư siêu ngạch: Là giá trị thặng dư thu được do áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng sư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại luôn tồn tại. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối.