Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

'Hãy bắt đầu từ cuộc sống từ đó sẽ nảy ra thơ". Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua bài thơ về Tiểu đội xe không kính của nhà thơ Phạm Tiến Duật, Liên hệ với bài thơ 'Khi con tu hú 'của Tố Hữu, Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên

' hãy bắt đầu từ cuộc sống từ đó sẽ nảy ra thơ '
Em hiểu ý kiến trên ntn ? Qua'bài thơ về tiểu đội xe không kính' của nhà thơ Phạm Tiến Duật.  Liên hệ với bài thơ 'khi con tu hú 'của Tố Hữu. Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. 

3 trả lời
Hỏi chi tiết
7.589
10
5
duc-anh.le17
28/08/2020 07:27:06
+5đ tặng

Giống như nhiều tác phẩm nghệ thuật khác, văn chương cũng có sứ mệnh của riêng mình. Đánh giá về sứ mệnh văn chương chân chính, nhà thơ Tố Hữu từng khẳng định "Văn chương sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có". Truyện hay thơ cũng như vậy, sứ mệnh của nó là nghệ thuật vị nhân sinh. Chính vì thế, nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki đã viết "Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật".

Câu nói của Bêlinxki có ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Thơ là những tác phẩm văn học được cấu trúc bởi thanh điệu, vần, các hình ảnh, cảm xúc của người sáng tác... Cuộc đời là tất cả những gì chân thật nhất xảy ra đối với chúng ta mỗi ngày, bao gồm cả vật chất và tinh thần. Còn nghệ thuật thường dùng để miêu tả cái đẹp, đẹp hình thức và cả tâm hồn. Nói "Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật", Bêlinxki muốn khẳng định vai trò của cuộc đời với thơ ca nói riêng, với văn chương nói chung. Từ đó, khẳng định giá trị chân chính của thơ ca - "nghệ thuật vị nhân sinh" rồi mới "vị nghệ thuật". Thơ trước hết phải vì con người, vì cuộc đời, vì hiện thực rồi mới là nghệ thuật.

Đó là ý kiến đúng đắn khi đánh giá về thơ. Vì sao lại nói như thế? Bởi lẽ thơ là thể loại đặc trưng của văn học, mà một trong những đặc điểm nổi bật nhất của văn học là gắn bó sâu sắc với cuộc sống, với cuộc đời và vì cuộc đời. Từ những chất liệu cấu thành tác phẩm đến nội dung tư tưởng gửi gắm trong tác phẩm đều khởi nguồn từ hiện thực cuộc sống, truyền tải bằng con đường tiếp nhận từ tác giả đến độc giả và quay trở lại với cuộc đời, góp phần kiến tạo những giá trị cuộc đời.

Thơ ca thường được nhớ đến với cảm xúc, tình cảm được kết tinh bởi những rung động của người sáng tác. Nhưng, những rung động đó khởi nguồn từ đâu? Câu trả lời là cuộc đời. Nhà thơ hòa mình với cuộc sống, họ đứng giữa muôn dòng chảy cuộc đời và khám phá bằng đôi mắt tinh tế của mình, cảm nhận bằng tâm hồn nhạy cảm trước mọi biến động. Họ vốn là những người dễ rung cảm, trăn trở và suy tư về cuộc đời, cảm nhận cuộc đời bằng tất cả giác quan. Những chất liệu bình thường của cuộc sống xuyên qua lăng kính tâm hồn nhà thơ, trở thành nguồn cảm hứng sáng tác. Đó có thể chỉ là một sự vật nhỏ bé như chiếc lá, nhành hoa, cũng có thể là khoảnh khắc giao mùa trong năm. Nhà thơ thả hồn mình giữa những bước đi của thời gian, tinh tế phát hiện ra vẻ đẹp thi vị của chúng:

"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Như người dưng qua đường"
(Trích "Sang thu" - Hữu Thỉnh)

Chỉ là những đổi thay mờ nhạt của cảnh vật khoảnh khắc chớm thu, nhưng qua tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ, những đổi thay ấy lại có thể khiến trái tim người động rung động.

Cuộc đời trong thơ cũng có khi là những hoài niệm đã qua vẫn còn ảnh hưởng đến thực tại và góp phần xây đắp thực tại. Giống như nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ "Tây Tiến":

"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi"

Những tháng năm chiến đấu gian khổ đã qua đi, nhưng bằng những vần thơ ấy, bằng tình cảm của nhà thơ, thế hệ bạn đọc mai sau đều phần nào cảm nhận được những gian lao và mất mát của lịch sử, biết ghi nhớ công ơn những người đã ngã xuống, biết trân trọng cuộc sống hôm nay. "Nghệ thuật vị nhân sinh" là ở đó, thơ ca vì cuộc đời là ở đó.

"Văn học là nhân học" (M.Gorki), nâng niu những giá trị tốt đẹp ở đời bằng những tình cảm, cảm xúc chân thực nhất. Bởi lẽ, cuộc đời không chỉ là cuộc sống của những người xung quanh mà còn là chính cuộc đời tác giả. Họ đi qua những thăng trầm, vượt qua những biến động rồi sáng tác thành những bài thơ viết về chính thăng trầm cuộc đời mình. Ví dụ như Tố Hữu trong "Việt Bắc" với những lưu luyến chia xa và ân tình thủy chung với mảnh đất, con người mà mình đã gắn bó suốt một thời gian dài. Hay Nguyễn Khoa Điềm với bao yêu mến và tự hào về "Đất Nước của Nhân Dân" "Đất Nước của ca dao thần thoại" trong bài thơ Đất Nước. Giá trị đích thực của thơ suy cho cùng chính là những giá trị nhân văn cao quý đó.

Thơ trước hết là cuộc đời, rồi, sau đó thơ là nghệ thuật. Nếu thơ chỉ là cuộc đời, nó sẽ mãi là những chất liệu thô sơ, bình thường, giống như viên ngọc chưa được mài giũa. Nhà thơ là những người nghệ sĩ góp nhặt, chọn lựa những chất liệu có giá trị bằng những rung cảm của tâm hồn mình rồi sử dụng tài năng để biến nó thành chất liệu nghệ thuật. Với những công cụ như biện pháp nghệ thuật, những hình ảnh biểu tượng, nhịp điệu..., nhà thơ sáng tạo nên những bài thơ có vần có nhịp và dạt dào cảm xúc. Thơ sẽ không được gọi là thơ nếu không có nhịp điệu, không có cảm xúc hay thanh vần. Một cành củi khô sẽ không bao giờ mang chất thơ nếu như Huy Cận không thổi hồn cho nó:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
(Trích "Tràng giang")

Tố Hữu đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thông, giọng điệu tâm tình để viết lên khúc tình ca "Việt Bắc". Nguyễn Khoa Điềm thì sử dụng thể thơ tự do, điệp từ điệp ngữ và chất liệu dân gian để làm sáng tạo lên Đất Nước của nền thơ ca dân tộc. Nghệ thuật bởi lẽ đó chính là cái đẹp của thi ca được nuôi dưỡng trên mảnh đất hiện thực.

Câu nói của nhà phê bình văn học Nga Bêlinxki đã đem đến rất nhiều giá trị sâu sắc. Ông đã khẳng định giá trị chân chính của thơ ca và những yêu cầu của tác phẩm nghệ thuật thơ rằng "Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật". Từ đó dường như cũng muốn gửi lời nhắn đến những nhà thơ - những người nghệ sĩ có sứ mệnh sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật thơ ca. Để tạo ra một bài thơ có giá trị chân chính, không thể xa rời cuộc đời, cũng không thể bỏ qua những công đoạn mài giũa, sáng tạo. Vừa gắn bó với cuộc đời vừa thổi vào tác phẩm những giá trị nghệ thuật mới có thể tạo ra những bài thơ thực sự.

Mỗi bài thơ đều là một kiệt tác nghệ thuật của một người nghệ sĩ chân chính. Nó không chỉ gửi gắm tấm lòng, truyền tải rung động mà còn ghi lại những dấu ấn riêng của người nghệ sĩ. Chính vì thế, khi tiếp nhận các tác phẩm văn học, độc giả cần có thái độ chân thành và trân trọng những viên ngọc quý đã được mài giũa bằng tài và tâm của một con người.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
7
0
duc-anh.le17
28/08/2020 07:27:50
+4đ tặng

Thơ ca Việt Nam giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước không chỉ tập trung lên án tội ác của kẻ thù, tái hiện sức mạnh, tinh thần bất khuất, tự cường của quân và dân ta mà qua những bài văn, áng thơ ta còn thấy được chân dung đẹp đẽ, chân thực của những người chiến sĩ. Ta có thể bắt gặp hình ảnh những người lính kiên cường, bất khuất, lạc quan và luôn giữ vững một niềm tin mãnh liệt vào tương lai độc lập của đất nước qua Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật và truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.

Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác vào năm 1968, khắc hoạ vẻ đẹp của những lính lái xe anh dũng trên tuyến đường Trường Sơn xưa. Họ vừa hiên ngang, bản lĩnh lại vừa lạc quan, yêu đời.

"Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi"

Trên tuyến đường Trường Sơn đầy hiểm nguy, bom đạn khiến xe không còn được nguyên vẹn. Trước tình thế ấy người lính vẫn không hề run sợ, họ đường hoàng vững tay lái trên cùng đường chiến trận:

"Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng."

Những người lính nổi bật với tư thế hiên ngang, bất khuất, chủ động đối mặt với mọi hiểm nguy, chiến đấu vì lý tưởng chính nghĩa. Mưa bom bão đạn của kẻ thù không chỉ tàn phá khiến những chiếc xe trở nên méo mó, biến dạng mà còn gây ra rất nhiều khó khăn, thách thức sức chịu đựng của những người lính lái xe trên những hành trình dài.

"Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái."

Trước mưa bụi dặm đường, bom đạn chiến trường nếu không vững vàng, kiên định có lẽ họ sẽ nhụt chí, sợ hãi, không thể hoàn thành nhiệm vụ tiếp viện. Nhưng với tâm thế sẵn sàng, lòng quyết tâm, họ xem khó khăn như là lẽ thường:

"Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa.
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi."

Những người lính có tâm thế đầy bình thản trước sóng gió, dù vất vả thiếu thốn mà nụ cười vẫn nở trên môi "mặt lấm cười ha ha". Ta như cảm nhận được những niềm vui bình dị nơi họ, tiếng nói vui cười vẫn rộn ràng giữa rừng hoang hiểm nguy.

"Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi."

Họ là những người trẻ cùng chung ý chí, chúng quyết tâm giải phóng dân tộc. Họ gặp gỡ, chung lòng quyết đấu, sau nhiệm vụ về tụ họp niềm nở trao cho nhau những cái bắt tay nhiệt thành, cùng khích lệ, động viên nhau vững lòng cố gắng. Họ giờ đây những người anh em trong một gia đình, tình cảm ấm cúng, dạt dào:

"Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy"

Trước đạn bom chiến trường, xe bị thương, bị hỏng, xe bị tàn phá đến trơ tàn nhưng lòng người thì không như thế, ý chí thì không gì có thể bị đẩy lùi. Trái tim người lính vẫn gắn góc băng qua những nẻo đường phục vụ chiến đấu:

"Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe không có xư
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim"

Với lý tưởng, niềm tin hướng về dân tộc, với một trái tim nhiệt huyết, người chiến sĩ nào có ngại gì giông gió sa trường, vẫn hết lòng chiến đấu hướng về miền Nam ruột thịt, hướng về ngày đất nước giải phóng, nước nhà thống nhất.

Chất lính trong thơ Phạm Tiến Duật vừa vừa ngang tàng, ngạo nghễ, vừa dí dỏm, hóm hỉnh thì chất lính trong Những ngôi sao xa xôi được thể hiện qua tinh thần, trách nhiệm và bản lĩnh hơn người của những cô gái thanh niên xung phong. Họ là những cô gái trẻ kiên cường, yêu nước, giàu trách nhiệm nên đã xung phong đi lính ở độ tuổi đẹp nhất tuổi trẻ. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của mình họ cống hiến nơi chiến trận. Cả Nho, Định, Thao đều chiến đấu đầy dũng cảm, hiên ngang, cẩn trọng, cố gắng hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, hỗ trợ cho cách mạng. Công việc phá bom, lấp hố thật rất hiểm nguy, họ phải đối mặt với cái chết bất kể lúc nào, vậy mà chưa một lần ba cô gái ấy than vãn, hay tỏ ra sợ hãi, luôn đi thẳng, đối mặt với bom bằng một cái đầu tỉnh và một trái tim đầy quả cảm. Không chỉ thể hiện một tinh thần thép khi thực hiện nhiệm vụ, ba chiến sĩ trẻ làm việc trên tuyến đường Trường Sơn còn là những cô gái yêu đời, hồn nhiên, lấp lánh những yêu thương của tình đồng chí, đồng đội họ dành cho nhau. Phương Định là một cô gái mơ mộng, thích làm đẹp, cô có một tâm hồn nhạy cảm và luôn quan tâm đến mọi người. Phương Định còn thích hát, mê hát, thích tận hưởng những cơn mưa bất chợt và dễ xúc động khi nhớ về quê nhà, về quê hương của mình. Thao lại là một người chị cả điềm tĩnh, chín chắn và cũng đầy dũng cảm, táo bạo. Thao luôn yêu quý cả Nho và Định, lo lắng, chăm sóc cho Nho từng ly từng tí khi Nhớ bị thương. Thao cũng rất thích hát và thích chép nhạc, đặc biệt là những lời hát khi Phương Định hát. Với Nho, một cô em út đáng yêu, nhẹ nhàng, sở thích của Nho là thêu thùa, thích được quan tâm và nũng nịu. Trái lại với nét trẻ con ấy, Nho có bản lĩnh đầy rắn rỏi khi xong pha chiến trận.

Ba người con gái Hà Nội với những cá tính riêng nhưng ở họ đều lấp lánh những phẩm chất đáng tự hào của những người lính trẻ: bất khuất, kiên trung, chẳng ngại gian khổ, xem khó khăn chỉ là thách thức với khát khao chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê đều chọn đề tài người lính làm chất liệu sáng tác, tuy cách thức biểu hiện khác nhau song đều ca ngợi những phẩm chất đầy tốt đẹp của họ. Những tác phẩm văn học ấy luôn mãi là bài ca sáng chói vinh danh những người hùng thầm lặng, cống hiến mùa xuân cuộc đời cho đất nước, Tổ quốc mình.

3
2
duc-anh.le17
28/08/2020 07:28:08
+3đ tặng

Không hiểu vì sao mỗi lần nghĩ đến đất nước và con người Việt Nam, mỗi chúng ta lại nghe vang vọng trong tâm chí những câu thơ của Huy Cận:

Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững,
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực, sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hoà.

Sảng khoái biết bao! Tự hào biết bao! Trong tâm trí ta bỗng cuồn cuộn đổ về dòng lịch sử bốn ngàn năm của dân tộc. Bừng sáng trong tâm hồn ta bốn ngàn năm của cha ông với những chiến công dựng nước và giữ nước, với trời bể ân tình thuỷ chung, yêu thương đùm bọc nhau. Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử.Ta nhớ Thao, Nho, Phương Định trong "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê ; và những người lính lái xe dũng cảm trong "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật.

"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật và "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê là những tác phẩm xúc động, hào hùng về những người lính thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Các tác giả đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của những người lính trẻ, những con người ngày đêm ra tiền tuyến vì miền Nam ruột thịt. Con người hiện lên trong trang thơ, trang văn của Phạm Tiến Duật và Lê Minh Khuê là một tập thể anh hùng đầy hiên ngang khí phách hào hùng, đã lắng nghe họ sống để ghi lại cái nhịp sống hào hùng, ghi lại vẻ đẹp tâm hồn, bản chất anh hùng của những con người giản dị, mộc mạc mà ngang tàng bất khuất.

"Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật là những dòng tâm sự đầy tình cảm về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn khói lửa. Phạm Tiến Duật không chỉ tái hiện lại hình ảnh của những chiếc xe không kính mà còn khắc tạc hình ảnh của những người lính lái xe kiên cường, dũng cảm, ngang tàng với một đời sống tình cảm hết sức phong phú - tình đồng đội đồng chí. Phạm Tiến Duật đã khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dân tộc trên những chiếc xe đặc biệt:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp. Ấy thế mà tác giả đã lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt của bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lý này đã có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm dành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền nếu đưa được vào thơ thì thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” đi rồi và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực (chiếc xe tam mã trong thơ của Puskin, con tàu trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, đoàn thuyền đánh cá trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận). Nay chiếc xe không kính của Phạm Tiến Duật là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Hình ảnh thực này được diễn tả bằng hai câu thơ rất gần với văn xuôi, lại có giọng thản nhiên càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của nó. Những “bom giật, bom rung” làm vỡ kính xe. Bom đạn chiến tranh làm cho những chiếc xe ấy biến dạng. Bom đạn đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vốn tốt, mới trở thành hư hỏng: không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hình ảnh chiếc xe không kính vốn không hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm với nét ngang tàng và tinh nghịch, thích cái lạ như của Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thành hình tượng thơ độc đáo của thời chiến tranh chống Mỹ. Không tô vẽ, không cường điệu và tả thực, nhưng chính cái thực đã làm người suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mỹ. Hình tượng những chiếc “xe không kính” đã gợi lên những nguy hiểm cận kề. Sự hy sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính.

Mục đích Phạm Tiến Duật miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hy sinh. Hình ảnh những chiếc xe không kính đã làm nổi rõ hình ảnh những chiến sĩ lái xe ở Trường Sơn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại là một cơ hội để người lính lái xe bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của họ, đặc biệt là lòng dũng cảm, tinh thần bất chấp gian khổ khó khăn.Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động:

Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng

Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì miền Nam ruột thịt”. Vẻ đẹp kiêu hùng được toát ra từ tư thế ngồi “ung dung” đến cái nhìn “nhìn thẳng”. Các từ láy “ung dung” cùng với nhịp thơ nhanh, đều, dứt khoát diễn tả vẻ đẹp khoan thai, thản nhiên, tự tin của người chiến sĩ. Tư thế của họ ung dung, hiên ngang mới đàng hoàng làm sao. Con mắt nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng có một vẻ trang nghiêm, bất khuất như lời thề. Họ không thẹn với đất, với trời. Hay nhất là hai chữ nhìn thẳng – nhìn thẳng vào gian khổ, nhìn thẳng vào hi sinh, không run sợ, không né tránh. Bầu không khí căng thẳng với “Bom giật, bom rung”, vậy mà họ vẫn nhìn thẳng, cái nhìn hướng về phía trước của một con người luôn coi thường hiểm nguy. Nhịp thơ 2/2/2 với những dấu phẩy ngắt khiến âm điệu câu thơ trở nên chậm rãi, như diễn tả thái độ thản nhiên đàng hoàng. Với tư thế ấy, họ đã biến những nguy hiểm trở ngại trên đường thành niềm vui thích. Chỉ có những người lính lái xe với kinh nghiệm chiến trường dày dặn, từng trải mới có được thái độ, tư thế như vậy. Không có kính chắn gió, bảo hiểm, đoàn xe vẫn lăn bánh bình thường. Lời thơ nhẹ nhõm, trôi chảy như những chiếc xe vun vút chạy trên đường.

Còn hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê được khắc hoạ lên từ cuộc sống gian khổ nguy hiểm của họ. Bằng sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, Lê Minh Khuê đã dựng lên bức chân dung người lính thanh niên xung phong vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại cả dân tộc kháng chiến chống Đế quốc Mĩ. Đó là bức chân dung được khắc tạc bằng cả tình yêu của Lê Minh Khuê đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Trong bức chân dung đó, Phương Định, cô nữ sinh Hà thành trở thành nữ thanh niên xung phong được tác giả thể hiện thật chân thực giữa chiến trường khốc liệt. Nhất là khi cô phá bom một mình. Ngày nào Định cũng phá bom nhiều lần, cô có nghĩ tới cái chết nhưng điều quan trọng hơn là “liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai ?”. Tâm trạng Phương Định khi phá bom được miêu tả cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác. Mỗi lần phá bom là mỗi lần tiếp xúc với công việc vô cùng nguy hiểm. Phương Định có cảm giác là “Các anh cao xạ” ở trên kia đang dõi theo từng động tác, cử chỉ của mình để rồi lòng dũng cảm ở cô như được kích thích bởi sự tự trọng: "Tôi đến gần quả bom… tôi sẽ không đi khom, các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đàng hoàng mà bước tới”... Cô không sợ nữa, không đi khom mà cứ đàng hoàng mà bước tới”. Đó là những ý nghĩ trong sáng, cao thượng. Đó là tư thế ngẩng cao đầu của cô gái bằng một tâm lý kiêu hãnh trước cái nhìn động viên tin tưởng của đồng đội. Khi ở bên quả bom, kề sát cái chết im lìm cảm giác căng thẳng của Định được miêu tả tỉ mỉ đến từng chi tiết, từng cảm giác của con người cũng trở nên sắc nhọn hơn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom, một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tôi, tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Mỗi chữ, mỗi lời trong đoạn miêu tả ấy làm hiện lên đậm đặc, sắc sảo từng nét cảm giác của cô gái đang đối diện với cái chết. Không thể hiện sự gan dạ, dũng cảm trước hiểm nguy một cách thô cứng theo kiểu ngợi ca: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm” (Phạm Tiến Duật) hay “Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng” (Tố Hữu). Minh Khuê thể hiện những nét tâm lý tinh tế, chân thật làm hiện lên vẻ đẹp tâm hồn. Phải chăng chất mơ mộng của tâm hồn giữa khói lửa là chiều sâu của tinh thần gan dạ, dũng cảm.Đó là công việc hàng ngày đã quen của Định. Công việc hiểm nguy ấy khiến ba cô gái thanh niên xung phong trở nên thật phi thường, thật đáng khâm phục.

Trong đội ngũ điệp trùng ấy của thế hệ trẻ trên đường Trường Sơn thời đánh Mỹ, bên cạnh những người lính trẻ, hình ảnh những cô gái thanh niên xung phong làm nên vẻ đẹp của thời đại toàn dân đánh Mỹ. Đã có biết bao cô gái để lại cả tuổi xuân của mình ở Trường Sơn, họ mãi mãi là những ngôi sao sáng, ánh sáng của tâm hồn ấy, tình yêu Tổ quốc ấy được Lâm Thị Mỹ Dạ ca ngợi:

Em đã lấy tình yêu Tổ Quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng quân thù hứng lấy luồng bom.

Cùng với đồng đội của mình, Phương Định là vẻ đẹp đầy tự hào của thế hệ trẻ thời chống Mĩ. Họ là những người có tâm hồn trong sáng, giàu mơ mộng, có tinh thần dũng cảm.

"Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê; "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật là những tượng đài lộng lẫy về vẻ đẹp của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đầy gian khổ thử thách mà rất đỗi anh hùng. Các tác phẩm đi vào những khía cạnh khác nhau của đời sống thời kì chống Mỹ, nhân vật hiện lên từ những khung cảnh, hoàn cảnh khác nhau và bút pháp khắc hoạ cũng mang tính độc đáo, cá biệt nhưng đều góp phần vào tiếng nói chung của dân tộc, tiếng nói khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Năm tháng trôi đi và lịch sử không ngừng biết động, "Những ngôi sao xa xôi" của Lê Minh Khuê; "Bài thơ về tiểu đội xe không kính" của Phạm Tiến Duật mãi là những bông hoa không tuổi tựa mùa xuân không ngày tháng, đã ghi lại cái quá khứ hào hùng, sôi động của đất nước mình một thuở. Và vẻ đẹp của con người Việt Nam đã làm nên cái hồn của cả dân tộc và góp phần làm cho tác phẩm sống mãi với thời gian.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Câu hỏi Ngữ văn Lớp 9 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo