Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nêu cảm nghĩ về bài thơ Sông núi nước Nam bằng một bài văn ngắn

Nêu cảm nghĩ thơ bằng một bài văn ngắn (một trang giáy nha) 
thơ : Sông núi nước nam ở
      Vằng vặc sách trời chia xứ sở

5 trả lời
Hỏi chi tiết
403
1
0
Hà Minh Đức
06/10/2020 23:17:44
+5đ tặng

Nam quốc sơn hà là một trong những áng văn chương kiệt tác của văn học thời Lí - Trần. Nó là tác phẩm kết tinh được hào khí thời đại, cảm xúc của muôn trái tim, vì thế, nó tiêu biểu cho tinh thần độc lập, khí phách anh hùng và khát vọng lớn lao của dân tộc trong buổi đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập.

        Sông núi nước Nam là một bài thơ chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Nguyên tắc như sau:

Nam quốc sơn hà

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

        Dịch thành:

Sông núi nước Nam

Sông núi nước Nam vua Nam ở

 Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây

Chúng bay nhất định phải tan vỡ.

(Theo Lê Thước - Nam Trân dịch)

        Tương truyền rằng, trong cuộc kháng chiến chống Tống đời nhà Lí, một đêm tối trên phòng tuyến Như Nguyệt, từ trong đền thờ hai thần Trương Hồng và Trương Hát (hai vị tướng giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt), bài thơ đã ngân vang lên (Vì thế người ta gọi bài thơ này là thơ thần). Nhưng dù là do thần linh hay con người đọc lên thì bài thơ vẫn là khát vọng và khí phách Đại Việt.

        Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:

                                         Nam quốc sơn hà Nam đế cư

        Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà - Nam đế cư. Đặc biệt, cách dùng chữ của tác giả bài thư thể hiện rất “đắt” ý tưởng và cảm xúc thơ. Hai từ Nam quốc và Nam đế có thể coi là nhãn tự (mắt thần) của câu thơ và của cả bài thơ. Trong tư tưởng của bọn cầm quyền phong kiến Trung Quốc xưa nay-chỉ có Bắc đế, chứ không thế có Nam đế hoàng đế Trung Hoa là vị hoàng đế duy nhất của thiên hạ, thay trời trị vì thiên hạ. Vì thế, khi xâm lược nước Nam, áp đặt được ách thống trị, chúng đã ngang nhiên trắng trợn biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc. Nền độc lập mà chúng ta giành lại được hôm nay thấm không ít máu của cha ông ta đã đổ suốt hơn một ngàn năm. Và nay nền độc lập ấy vẫn đang bị đe dọa bởi tư tưởng ngông cuồng kia.

        Trở lại với nội dung tư tưởng bao hàm qua ngôn từ của câu thơ. Nam quốc không chỉ có nghĩa là nước Nam, mà Nam quốc còn là vị thế của nước Nam ta, đất nước ấy dù nhỏ bé nhưng tồn tại độc lập, sánh vai ngang hàng với một cường quốc lớn ở phương Bắc như Trung Quốc. Hơn nữa, đất nước ấy lại có chủ quyền, có một vị hoàng đế (Nam đế). Vị hoàng đế nước Nam cũng có uy quyền không kém gì các hoàng đế Trung Hoa, cũng là một bậc đế vương, do đấng tối cao phong tước, chia cho quyền cai quản một vùng đất riêng mà lập nên giang sơn xã tắc của mình:

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

        Sông núi nước Nam là của người Nam. Đó là sự thật hiển nhiên. Không ai có quyền phủ định? Bởi sự phân định núi sông, bờ cõi đâu phải là ý muốn chủ quan của một người hay một số người, mà do “Trời” định đoạt. Bản đồ ranh giới lãnh thổ của các quốc gia đã in dấu ấn trong sách trời: Ai có thể thay đổi được?!

        Tác giả bài thơ đã đưa ra những lí lẽ thật xác đáng. Qua cách lập luận, nổi lên một quan niệm, một chân lí thiêng liêng và cao cả: chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của dân tộc Đại Việt.

        Vẫn những lí lẽ đanh thép ấy, tác giả khẳng định tiếp:

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

 Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

        Thật là một khí phách kiên cường! Thay mặt cả dân tộc, nhà thơ đã lớn tiếng cảnh cáo bọn giặc xâm lược: Chúng bay phạm vào bờ cõi này, tức là chúng bay đã phạm vào sách trời; mà phạm vào sách trời, tức là làm trái với đạo lí trở thành kẻ đại nghịch vô đạo (nghịch lỗ), lẽ nào Trời đất dung tha.  Mặt khác chúng bay phạm vào bờ cõi này tức là phạm vào chủ quyền thiêng liêng của một dân tộc, nhất là dân tộc đó lại là một dân tộc có bản lĩnh kiên cường, có ý chí độc lập mạnh mẽ, vậy thì, sự thất bại sẽ là điều không thể tránh khỏi, thậm chí còn bị đánh cho tơi bời thủ bại hư.

        Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam lại có một khí phách hào hùng như thế! Cảm xúc thơ thật mãnh liệt, tạo nên chất trữ tình chính luận- một đặc điểm của thơ ca thời Lí - Trần, khiến người đọc rưng rưng!

        Và ngàn đời sau, bài thơ vẫn là hồn thiêng sông núi vọng về.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Hà Minh Đức
06/10/2020 23:19:00
+4đ tặng

Việt Nam có truyền thống lịch sử lâu đời với hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Trong suốt chiều dài của lịch sử, dân tộc ta luôn là “miếng mồi béo bở”, là đối tượng xâm lăng của những kẻ ngoại xâm. Nhưng, dân tộc Việt Nam là dân tộc có truyền thống kiên cường bất khuất, có lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ. Vì vậy mà bao dấu chân quân thù cũng bị cha ông ta đánh đuổi khỏi bờ cõi. Trong các tác phẩm thơ văn, đã có rất nhiều tác phẩm viết về lòng yêu nước này. Tác phẩm “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt là một trong những bài thơ tiêu biểu về lòng yêu nước, về ý thức tự tôn dân tộc. Bài thơ được xem như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, bởi đây cũng là lần đầu tiên có một tác phẩm thơ văn khẳng định hùng hồn, đanh thép về chủ quyền, về độc lập như vậy.

      Bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt là bài thơ tuy có bốn câu, rất ngắn gọn, xúc tích song nội dung chứa trong đó mới thật lớn lao làm sao, người chủ tướng này không chỉ vạch ra ranh giới lãnh thổ một cách rạch ròi, xác đáng, chỉ ra hành động ngang ngược, phi nghĩa cũng là trái với luật trời của lũ giặc, cũng như niềm tin mạnh mẽ, bất diệt vào sức mạnh của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống lực lượng bạo tàn, phi nghĩa ấy. Đặc biệt, những luận điểm mà tác giả Lý Thường Kiệt nêu ra trong bài thơ lại vô cùng chặt chẽ, hợp tình hợp lí mà quân địch “không thể chối cãi”. Mở đầu bài thơ, tác giả Lý Thường Kiệt đã dùng giọng nói hào sảng, mạnh mẽ để khẳng định ranh giới, lãnh thổ của nước ta:

“Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận ở sách trời”

      Ở đây, tác giả dùng một giọng điệu hào sảng khẳng định lãnh thổ chủ quyền của chính dân tộc mình, tuy nhiên Lý Thường Kiệt lại không dùng sự chủ quan của mình để phán xét, tác giả đã đứng trên lập trường của một người bình thường, với cái nhìn chủ quan để khẳng định những chân lí đã hiển hiện, rõ nét mà ai cũng biết, ai cũng phải thừa nhận. “Sông núi nước Nam” ta có thể hiểu là phần lãnh thổ của dân tộc Việt Nam, hình ảnh sông núi là sự biểu tượng cho phần ranh giới ấy. Trong tương quan với cương vực, lãnh thổ, Việt Nam cũng là một nước có chủ quyền, có người đứng đầu, người làm chủ “vua Nam ở”. Ngay ở câu thơ đầu, Lý Thường Kiệt đã đưa ra một lời khẳng định đanh thép, hùng hồn về vấn đề chủ quyền với lập luận xác đáng, không thể chối cãi.

      Để tiếp tục chứng minh cho lời khẳng định của mình, Lý Thường Kiệt đã chỉ ra nguồn gốc, căn nguyên đầy vững chắc của lời khẳng định ấy. “Rành rành” là một từ láy chỉ sự rõ nét, hiển hiện một cách đầy chắc chắn. “Định phận” là sự định đoạt, là số phận đã được phân chia, đã được quy định, “sách trời” lại chỉ ra đối tượng đã “định phận” ranh giới, lãnh thổ ấy. Sách trời là cuốn sổ ghi chép những điều có liên quan đến con người dưới trần gian, nói đến sách trời, tác giả như muốn nói đến sự thiêng liêng, cũng như sự rạch ròi của đấng tối cao, người mà luôn khiến cho người dân phải tôn sùng và phải lắng nghe những lời chỉ dạy.

     “Rành rành định phận ở sách trời” mang ý nghĩa thiêng liêng hơn khi chủ quyền lãnh thổ ấy đã được định đoạt ở sách trời, đồng thời cũng thể hiện được hành động đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, đấu tranh nhằm ngăn cản những dã tâm ti tiện của kẻ xâm lược làm trái đi đạo lí của nhà trời. Từ việc khẳng định, nêu ra những lí lẽ xác đáng, Lý Thường Kiệt đã lên tiếng cảnh báo đầy hùng hồn về cái kết cục bi thảm mà quân địch sẽ nhận được khi chúng cố tình xâm phạm chủ quyền của một dân tộc có lãnh thổ, có ý thức về lòng tự tôn dân tộc ấy:

“Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời”

      Nếu như ở hai câu thơ đầu, tác giả Lý Thường Kiệt còn khá bình tĩnh, khách quan khi khẳng định ranh giới, cương vực, quyền làm chủ đất nước của dân tộc Việt Nam, thì đến câu thơ này, tác giả đã tỏ ra vô cùng giận dữ đối với hành động ngang ngược, phi nghĩa, trái với luật trời của lũ xâm lăng. “Cớ sao” là một câu hỏi đầy giận dữ, bởi đã biết những hành động xâm lược là sai trái, xâm lược vào một đất nước có chủ quyền là trái với đạo lí, trái với luật trời nhưng chúng vẫn tỏ ra ngạo mạn, bạo tàn với dân tộc tự do, yêu hòa bình ấy “cớ sao lũ giặc sang xâm phạm”.

     Câu thơ còn thể hiện thái độ không khoan nhượng, không nhún nhường trước những hành động bạo tàn đó, thể hiện được chí khí, bản lĩnh của một người dân yêu nước. Không chỉ giận dữ trước hành động của lũ giặc, Lý Thường Kiệt còn lên tiếng cảnh báo trước hậu quả của lũ giặc sẽ phải nhận lấy khi xâm lược Việt Nam “chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời” đó chính là kết cục đầy ê chề, thê thảm của lũ cướp nước. Đồng thời, câu thơ cũng thể hiện được niềm tin bất diệt của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực bạo tàn ấy.

     Như vậy, bài thơ “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt là một khúc anh hùng ca của dân tộc, nó không chỉ vang lên đầy hào sảng, mạnh mẽ cũng không kém phần tự hào khi chỉ ra ranh giới, chủ quyền lãnh thổ của dân tộc, nó lại réo rắt, đanh thép khi kết tội kẻ thù, vạch ra kết cục bi thảm mà lũ giặc phải đón nhận khi cố tình xâm lăng dân tộc độc lập mà anh hùng ấy. Vượt lên trên tất cả những giá trị nội dung, nghệ thuật thông thường, “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt đã trở thành một áng thơ văn bất hủ, bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

1
0
Hà Minh Đức
06/10/2020 23:19:36
+3đ tặng

     Lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần tự tôn dân tộc vốn là một chủ đề thiêng liêng trong kho tàng văn học Việt Nam. Từ thơ ca trung đại đã có rất nhiều tác phẩm xuất sắc nói về lòng yêu nước nồng nàn. “Nam quốc sơn hà” hay còn gọi là “Sông núi nước Nam” là một bài thơ đặc sắc được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta. Bài thơ đã thể hiện chủ quyền của đất nước, niềm tự hào dân tộc và lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi nước Nam.

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

      Bài thơ Nam quốc sơn hà được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Tác phẩm được viết vào thời nhà Lê trong trận chiến trên sông Như Nguyệt đánh đuổi giặc Tống xâm lăng. Hiểu được hoàn cảnh ra đời, người đọc càng thấm thía ý nghĩa lớn lao, giá trị sâu sắc của tác phẩm.

   Hai câu đầu bài thơ đã khẳng định chủ quyền dân tộc sâu sắc:

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”

(Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời)

   Chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã khẳng định sông núi, đất nước Việt Nam là của người nước Nam, điều đó đã định sẵn rõ ràng ở sách trời. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “vua Nam ở” cũng chính là đại diện cho toàn dân tộc nước Nam ta từ ngàn đời nay. Hai từ “tiệt nhiên” khẳng định như đinh đóng cột một cách đanh thép, khó có thể chối cãi. Nhà thơ đã dùng đến “thiên thư” chính là sách trời để nói lên chủ quyền đất nước, chủ quyền từng mảnh đất của người nước Nam ta. Đó là vùng đất anh hùng, thiêng liêng đã gắn bó máu thịt với người dân nước Nam. Bên cạnh việc nhấn mạnh chủ quyền đất nước, câu thơ còn ẩn chứa niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc. Giọng thơ hào hùng cùng nhịp thơ mạnh mẽ, dứt khoát trong câu thơ càng khiến cho mỗi câu thơ vang lên trở nên đanh thép, hào hùng, có sức truyền cảm lớn lao tới người đọc, người nghe.

     Không chỉ khẳng định chủ quyền đất nước, bài thơ còn vang lên như một lời nguyện sắt son quyết giữ trọn mảnh đất quê hương, đánh đuổi giặc xâm lăng:

“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”

(Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)

      Sau khi nhấn mạnh chủ quyền đất nước đã định ở sách trời, bài thơ khéo léo nhắc nhở những tên giặc “nghịch lỗ” dám xâm phạm bờ cõi đất nước chẳng khác nào phạm vào thiên thư, phạm với ý trời. Ẩn chứa trong câu thơ là một sự giận dữ, ý chí căm hờn sâu sắc trong trái tim của mỗi người dân yêu nước khi tổ quốc bị xâm lăng. Cụm từ “thủ bại hư” khẳng định sâu sắc nhất định giặc xâm lăng sẽ bại trận một cách tơi bời, nhục nhã. Lời thơ vang lên đanh thép, hào hùng như một lời nguyện đoàn kết của toàn dân tộc, quyết tâm giữ vũng bờ cõi nước Nam. Đó cũng chính là tinh thần đoàn kết, yêu nước từ ngàn đời của dân tộc ta. Đọc câu thơ, người đọc cảm nhận được hào khí một thời, cảm nhận được sức mạnh to lớn của toàn dân, của đoàn quân đang ào ào ra trận trên dưới đồng lòng vì tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc.

     Đặt vào hoàn cảnh sáng tác của bài thơ, bài thơ vang lên trên sông Như Nguyệt giống như một bài thơ thần, vừa có ý nghĩa răn đe kẻ thù, vừa có ý nghĩa khơi gợi lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân đội nhà Lê thời ấy. Lịch sử đã khẳng định thành công rực rỡ của bài thơ, quân xâm lược nhà Tống nghe xong bài thơ thấy khiếp sợ, giẫm đạp lên nhau chạy tan tác. Bài thơ tuy ngắn gọn với bốn câu thơ nhưng lời ít, ý nhiều, lời thơ súc tích, giọng thơ đanh thép, hào hùng cùng hình ảnh thơ đặc sắc đã làm nên chiến thắng cho quân dân ta thời ấy.

    Gấp trang sách lại mà những lời thơ trong bài Nam quốc sơn hà vẫn âm vang bên tai. Bài thơ đã khẳng định được chủ quyền đất nước, khơi gợi niềm tự hào tự tôn dân tộc và khẳng định sâu sắc quyết tâm đánh đuổi giặc xâm lăng ra khỏi bờ cõi nước ta. Bài thơ tuy cách xa chúng ta hàng bao thế kỷ nhưng từng lời trong bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên ấy sẽ còn vang vọng mãi cho đến tận hôm nay và mai sau.



 
1
0
Hà Minh Đức
06/10/2020 23:20:18
+2đ tặng

Lý Thường Kiệt là một vị tướng thời nhà Lý. Ông được vua Lý Nhân Tông sai đem quân đi đánh quân Tống ở phòng tuyến sông Như Nguyệt. Bài thơ “Sông núi nước Nam” được ra đời vào hoàn cảnh đó. Bài thơ khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của đất nước và nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược.

Có nhiều lời kể về sự ra đời của bài thơ, trong đó có truyền thuyết: Năm 1077, quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy xâm lược nước ta. Vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân chặn giặc ở phòng tuyến sông Như Nguyệt (một khúc của sông Cầu, nay thuộc huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh). Bỗng một đêm, quân sĩ nghe từ trong đền thờ hai anh em Trương Hống và Trương Hát – hai vị tướng đánh giặc giỏi của Triệu Quang Phục, được tôn là thần sông Như Nguyệt – có tiếng ngâm bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt.

Mở đầu bài thơ, tác giả Lí Thường Kiệt đã khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ về vấn đề chủ quyền, ranh giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt, đó là ranh giới đã được định sẵn, là nơi sinh sống của người dân Đại Việt. Lời khẳng định này không phải chỉ là lời khẳng định của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những luận chứng sắc sảo, đó là bởi “sách trời” quy định. Tức sự độc lập, chủ quyền về lãnh thổ ấy được trời đất quy định, chứng giám. Một sự thật hiển nhiên mà không một ai có thể chối cãi được:

  • “Sông núi nước Nam vua Nam ở
  • Rành rành định phận ở sách trời”

Tác giả không dùng từ “Nam Vương” mà dùng từ “Nam Đế”. Trong quan niệm của những kẻ thống trị phong kiến phương Bắc, thì chỉ có vua của họ mới được phép xưng là "đế". Họ tự cho mình là "thiên tử" (con trời), hơn tất cả các vị vua ở các xứ sở khác. Dùng chữ "Nam đế", tác giả Nam quốc sơn hà biểu hiện một niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Đằng sau câu thơ, ta như nghe được một tiếng nói mạnh mẽ, kiêu hãnh: Phương Nam ta cũng có đế, bình đẳng, ngang hàng với phương Bắc, không kẻ nào được phép coi thường. “Rành rành định phận ở sách trời” có nghĩa vùng lãnh thổ ấy, chủ quyền ấy của người Nam đã được sách trời ghi chép rõ ràng, dù có muốn cũng không thể chối cãi, phủ định. Như vậy, ở hai câu thơ đầu, tác giả không chỉ đưa ra luận điểm là lời khẳng định hào sảng, chắc chắn về vùng lãnh thổ, ranh giới quốc gia và chủ quyền mà tác giả còn rất tỉnh táo, sắc sảo khi đưa ra những luận cứ đúng đắn, giàu sức thuyết phục không một kẻ nào, một thế lực nào có thể phủ định, bác bỏ được nó. Giọng văn hào hùng, mạnh mẽ nhưng không giấu được niềm tự hào của bản thân Lí Thường Kiệt về chủ quyền của dân tộc mình.

Tiếp sau lời khẳng định hùng hồn, đanh thép, tác giả đã mạnh mẽ đe dọa kẻ thù. Đó chính là cái kết cục đầy bi thảm mà chúng sẽ phải đón nhận nếu biết nhưng vẫn cố tình thực hiện hành động xâm lăng lãnh thổ, gây đau khổ cho nhân dân Đại Việt:

  • “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm
  • Chúng bay sẽ bị đánh cho tơi bời”

Câu thơ thứ ba lên án hành động phi nghĩa, phản thiên nghịch địa của quân Tống, tố cáo, vạch trần chuyện xâm lược nước ta, biến nước ta thành quận huyện của Trung Quốc. Câu thơ thứ tư mang hình thức là một câu khẳng định hoàn toàn có cơ sở bởi tác giả đã chỉ ra một chân lý: những kẻ làm trái ngược với ý trời nhất định sẽ phải chuốc lấy thất bại thảm hại.

Bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, giọng thơ dõng dạc, đanh thép, “Sông núi nước Nam” là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên khẳng định chủ quyền và lãnh thổ, nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền trước mọi kẻ thù xâm lược.

1
0
Hà Minh Đức
06/10/2020 23:20:47
+1đ tặng

Lý Thường Kiệt, người con vĩ đại của Thăng Long nghìn năm văn vật, tác giả của bài “ Sông núi nước Nam” bất hủ. Năm 1076, vua nhà Tống sai tướng Quách Quỳ mang đại binh sang xâm chiếm nước Đại Việt, Lý Thường Kiệt lập chiến tuyến Sông Cầu- Như Nguyệt. Trong những giờ phút giao tranh ác liệt ấy, ông viết bài thơ “ Sông núi nước Nam” như để khích lệ động viên tướng sĩ quyết chiến quyết thắng giặc Tống. Bài thơ cũng là niềm tự hào về chủ quyền của dân tộc, nêu cao ý chí tự lực, tự cường của nhân dân ta.

“Sông núi nước Nam vua Nam ở

Vằng vặc sách trời chia xứ sở

Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?

Chúng bay nhất định phải tan vỡ.”

Ý tưởng bảo vệ độc lập, kiên quyết chống giặc ngoại xâm được diễn đạt trực tiếp qua một mạch lập luận khá chặt chẽ và biện chứng. Mở đầu bài thơ là lời tuyên bố đanh thép về chủ quyền đất nước:

“ Nam quốc sơn hà Nam đế cư.”

Câu thơ 7 tiếng tạo thành hai vế đối xứng nhau nhịp nhàng: Nam quốc sơn hà - Nam đế cư. Theo quan điểm phù hợp với lịch sử lúc bấy giờ, thì vua là tượng trưng cho quyền lực tối cao, tối thượng, đại diện cho quyền lực của cả một cộng đồng dân tộc.Ý nghĩa câu thơ không dừng lại ở đó. Tác giả xưng danh là nước Nam với chủ ý gạt bỏ thái độ khinh miệt coi nước ta là quận huyện vẫn tồn tịa trong đầu óc lũ cướp nước bấy lâu nay. Đặt nước mình (Nam quốc) ngang hàng với (Bắc quốc). Xưng vua Nam “ Nam đế” cũng là bác bỏ thái độ ngông nghênh của bọn vua chúa phương Bắc hay tự xưng là thiên tử,  coi thường vua các nước chư hầu gọi họ là vương. Các từ nước Nam, vua Nam vang lên đầy kiêu hãnh, thể hiện thái độ tự hào, tự tôn cùng tư thế hiên ngang làm chủ đất nước của dân tộc Việt. Đó không phải là lời nói suông. Chiến dịch tấn công ào ạt của quân ta vào căn cứ của quân cướp nước mấy tháng trước đó là một bằng chứng hùng hồn. Do đó, chân lí nói trên càng có cơ sở thực tế vững chắc. Mọi niềm tin đều cho ta những sức mạnh.

Hai câu thơ tiếp theo giọng thơ vang lên sang sảng, căm giận. Lý Thường Kiệt lên án nghiêm khắc hành động ăn cướp trắng trợn của giặc Tống. Chúng đã mang quân sang chiếm đóng nước ta. Câu hỏi tu từ là cho lời thơ thêm đanh thép:

“Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?”

Một câu hỏi tu từ vang lên, đó cũng là lời lên án sâu sắc quân cướp nước. Hai chữ " giặc dữ" đã thể hiện hết thảy sự ngoan độc bạo tàn của chúng, những tên nhăm nhe cướp bóc, đàn áp chúng dân, giết người, gây ra chiến tranh điêu tàn. Chúng âm mưu biến nước ta thành quận huyện của Trung Quốc, xâm phạm tới “ Nam quốc sơn hà”, làm trái với “ sách Trời”. Giặc Tống nhất định sẽ bị nhân dân ta giáng cho những đòn trừng phạt đích đáng:

“Chúng bay nhất định phải tan vỡ.”

Ở trên, tác giả gọi quân xâm lược là giặc, là nghịch lỗ thì đến câu này, ông gọi đích danh như có chúng trước mặt: chúng mày. Cách xưng hô không khác gì người trên với kẻ dưới hàm ý coi thường, đồng thời nghiêm khắc cảnh cáo chúng: nhất định phải tan vỡ. Y như là sự việc đã sắp đặt trước, chỉ chờ kết quả. Câu thơ khẳng định niềm tin chiến thắng, chiến hắng vì ta có sức mạnh chính nghĩa đánh giặc để bro vệ Sông núi nước Nam, chiến thắng vì sự đoàn kết trong chiến tranh, truyền thống yêu nước của dân tộc ta.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, giọng thơ đanh thép, căm giận hùng hồn, vì thế mà bài thơ được mệnh danh à bài thơ “ Thần”. Bài thơ cũng như một khúc tráng ca chống xâm lăng biểu lộ khí phách và ý chí tự lập tự cường của đất nước và con người Việt Nam, đó là bài ca của “ Sông núi ngàn năm…”

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 7 mới nhất
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư