Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Qua học văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương" của tác giả Nguyễn Dữ em hãy làm sáng tỏ ý kiến sau

4 trả lời
Hỏi chi tiết
468
9
0
Nguyễn Minh Vũ
08/10/2020 05:38:49
+5đ tặng

Nguyễn Dữ là người học rộng tài cao, ông sống trong thời gian nhà Lê bắt đầu khủng khoảng, các tập đoàn phong kiến tranh quyền, đoạt vị với nhau. Bởi vậy ông ra làm quan không lâu sau đó lui về ở ẩn. Thời gian lui về ở ẩn, ông sưu tầm các truyện dân gian để sáng tác lại thành tập “Truyền kì mạn lục”. Trong số hai mươi truyện của truyền kì mạn lục, nổi bật nhất là tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương. Tác phẩm vừa giàu giá trị hiện thực vừa thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Tác phẩm xoay quanh số phận và cuộc đời nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái xinh đẹp: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”, nàng mang vẻ đẹp toàn diện cả về hình thức và tâm hồn. Nàng là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chi tiết Trương Sinh “mến về dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về” càng nhấn mạnh, tô đậm hơn nữa vẻ đẹp nhan sắc và phẩm hạnh của nàng.

Vũ Nương là người mang trong mình nhiều phẩm chất cao quý. Trước hết, nàng là một người vợ, người mẹ đảm đang, người con dâu hiếu thảo, tận tụy với mẹ chồng. Khi chồng đi lính, thân là phụ nữ nhưng nàng đã một mình đứng ra gánh vác công việc gia đình. Mẹ chồng già yếu, nhớ con mà đổ bệnh nàng hết sức chăm sóc, “thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn” mong cho mẹ mau mau khỏi bệnh. Trong xã hội phong kiến xưa, mối quan hệ giữa mẹ chồng nàng dâu thường chỉ mang tính chất ràng buộc, ông cha ta vẫn thường có câu: “Trời mưa ướt lá đài bi/ Con mẹ, mẹ xót, xót gì con đâu” hay “Thật thà cũng thể lái trâu/ Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng”,… Nhưng những lời bà mẹ trăng trối cuối cùng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành, sâu nặng của Vũ Nương với mẹ chồng. Những lời cảm tạ của bà mẹ đã cho thấy tấm lòng yêu thương hết mực của nàng với bà bởi vậy bà cũng coi Vũ Nương như con gái của mình vậy. Mấy ai trong xã hội đó lại được lòng mẹ chồng yêu mến đến như vậy. Khi bà mất, nàng lo tang ma chu đáo như cho cha mẹ đẻ của mình. Qua những hành động đó ta thấy Vũ Nương là nàng dâu hết sức nết na, hiếu thảo, tiếng thơm của nàng còn để lại mãi muôn đời.

Không chỉ vậy nàng còn là người vợ nết na, thủy chung, giàu lòng vị tha. Khi mới cưới, Vũ Nương hiểu rõ chồng mình có tinh đa nghi, hay ghen và hay phòng ngừa quá mức, bởi vậy nàng luôn giữ gìn khuôn phép, để hai vợ chồng không phải chịu cảnh bất hòa. Chính vậy, trong suốt những năm tháng chung sống bên nhau, trước khi Trương Sinh ra trận gia đình nàng luôn được sống trong cảnh đầm ấm, hạnh phúc. Ngày Trương Sinh ra trận, tiễn chồng những lời dặn dò không phải công danh phú quý mà là “chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Ba năm xa chồng, một mình sinh con, nàng nhớ chồng khôn nguôi, nàng bỏ cả điểm trang, dành tất cả thời gian chăm sóc gia đình, làm tròn bổn phận của người vợ, người mẹ. Ngay cả khi Trương Sinh trở về nghi ngờ nàng thất tiết nàng cũng chỉ biết khóc và thanh minh bằng những lời lẽ tha thiết, dịu dàng mong chồng hiểu cho tấm lòng của mình.

Khi bị chồng nghi oan, mắng nhiếc, đánh đuổi đi, không cho cơ hội giãi bày, giải thích nàng chỉ đau khổ, cố gắng thanh minh mà không hề oán hận với người chồng hẹp hòi, ích kỉ. Được Linh Phi cứu, sống cuộc đời an nhàn, bất tử nhưng lòng nàng lúc nào cũng hướng về quê hương, về gia đình bé nhỏ của mình. Việc nàng gặp lại Phan Lang dưới thủy cung và gửi chiếc thoa về cho chồng cho thấy nàng đầy vị tha, sẵn sàng tha thứ cho chồng. Khoảng khắc ẩn hiện, mờ ảo trên bến sông Hoàng Giang, Vũ Nương không một lời oán hận, trách móc: “Đa tạ tình chàng. Thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Qua đây ta có thể thấy, Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ đức hạnh, người con dâu tốt nết mà còn là một người phụ nữ bao dung, giàu lòng vị tha với người chồng đã đẩy đến bước đường cùng. Vũ Nương là hiện thân cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam thảo hiền, đức hạnh.

Mặc dù mang trong mình đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp để được hưởng cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng cuộc đời Vũ Nương lại đầy oan nghiệt, trái ngang. Bắt đầu ngay từ cuộc hôn nhân của nàng, không có sự đăng đối giữa hai gia đình, về phẩm chất giữa hai con người: nàng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp phẩm chất: công-dung-ngôn-hạnh, nhưng Trương Sinh lại là kẻ ít học, đa nghi, hay ghen. Lấy chồng không bao lâu, Trương Sinh phải đi lính, nàng sống trong nỗi cô đơn, vất vả: gánh vác việc gia đình, nuôi dạy con thơ và chăm sóc mẹ già; nỗi nhớ chồng, lo lắng cho chồng nơi biên ải tha thiết đêm ngày. Đến khi chồng về lại phải ghánh nỗi oan lạ, oan thất tiết mà không có cơ hội tìm hiểu nguyên do. Cuối cùng nàng đã phải lấy cái chết để chứng minh tấm lòng thủy chung, trong sạch của mình. Đây là phản ứng dữ dội và quyết liệt của Vũ Nương để bảo vệ nhân phẩm cũng như cho thấy nỗi bất hạnh tột cùng của nàng. Dù sống bất tử dưới thủy cung nhưng nàng không hề hạnh phúc, bởi hạnh phúc thực sự của con người là ở trần thế, được chung sống, được hưởng không khí đầm ấm của gia đình. Nhưng điều ấy đối với nàng mãi mãi không thể làm được nữa. Thân ở thủy cung, lòng lại một mực hướng về dương gian, nơi có chồng, có con khiến cho nỗi bất hạnh của nàng càng được đậm tô hơn nữa. Vũ Nương là tiêu biểu cho phận bạc của biết bao phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo, nặng nề lễ giáo phong kiến.

Ngoài nhân vật Vũ Nương, ta cũng không thể quên một Trương Sinh hồ đồ đã đẩy người đầu gối tay ấp với mình đến chỗ chết. Trương Sinh là con nhà trọc phú, ít học, tính tình cục cằn, hay ghen. Cũng bởi do ít học nên khi chiến tranh xảy ra anh ta là người đầu tiên trong danh sách đi lính. Cũng bởi tính đa nghi, hay ghen đã làm cho Trương Sinh mờ mắt, chỉ nghe lời từ đứa con ngây thơ không chịu nghe lời phân trần của vợ. Chính Trương Sinh là người đã trực tiếp đẩy Vũ Nương phải tìm đến cái chết. Khi hiểu ra mọi chuyện thì đã quá muộn màng. Trương Sinh phải ôm nỗi ân hận, nỗi đau trong suốt phần đời còn lại. Trương Sinh chính là đại diện tiêu biểu cho những người đàn ông vũ phu, những lễ giáo phong kiến hà khắc đã đẩy người phụ nữ rơi vào bi kịch.

Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, chi tiết mang tính thắt nút, đẩy câu chuyện lên cao trào, đình điểm: cái bóng là mấu chốt của câu chuyện, là chi tiết thắt nút cũng như cởi nút cho diễn biến tác phẩm. Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: dẫn dắt tình huống hợp lí. Kết hợp hài hòa giữa hiện thực và kì ảo. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn, nhân vật được miêu tả nội tâm khá phong phú. Những yếu tố đó góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Chuyện người con gái Nam Xương thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân đạo. Tác phẩm là tiếng nói cảm thương cho số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đồng thời cũng lên án tố cáo xã hội nam quyền và chiến tranh phi nghĩa đã tước đoạt hạnh phúc và đẩy con người đến bước đường cùng.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
9
0
Nguyễn Minh Vũ
08/10/2020 05:39:22
+4đ tặng

Nguyễn Dữ, người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương là học trò của tuyết giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông sống ở thế kỉ XVI-thời kì nhà Lê bước vào khủng hoảng.

Truyền kì mạn lục: là tác phẩm viết bằng chữ Hán, có chịu ảnh hưởng của truyện truyền kì Trung Quốc. Truyện mang nhiều yếu tố kì ảo, hoang đường, khi thác từ các truyện cổ và truyền thuyết lịch sử Việt Nam. Truyện ca ngợi những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ trong hoàn cảnh lễ giáo phong kiến khắt khe, bị coi thường và không được đề cao giá trị của người phụ nữ. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục.

Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, là người con gái có tính nết thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp” nang đồng ý làm vợ của Trương Sinh tính tình đa nghi, con một nhà giàu có. Chiến tranh xảy ra Trương sinh phải đi lính đánh giặc Chiêm, khi chồng đi Vũ Nương sinh con, ở nhà nàng là người mẹ hiền, dâu thảo, giữ phẩm hạnh. Trương Sinh đi kính trở về, nghe lời không căn cứ của con trẻ ngây thơ mà nghi ngờ vợ, khiến Vũ Nương phải trẫm mình để tự giải oan, nàng được cứu giúp bởi Linh Phi hoàng hậu, nên sống dưới động Rùa, gặp Phan Lang, Trương Sinh hối hận nên lập đàn giải oan. Bóng nàng thoang thoảng hiện lên nhưng không quay về.

Thế kỉ XVI khi mà chế độ phong kiến triều đình nhà Lê bắt đầu thoái trào, xã hội loạn lạc, nhiều bất công. Nhưng người tốt thì vẫn giữ được những nét phẩm hạnh, Vũ Nương là một con người như thế. Tuy gia cảnh nghèo khó nhưng nàng vẫn giữ được những phẩm chất cao quý của người con gái “nết na, thùy mị-tư dung tốt đẹp”. Chứng tỏ nàng là người con gái có giáo dục có khuôn phép. Ngược lại với Trương Sinh, “tuy con nhà hào phú nhưng không có học”, tính tình đa nghi. Dẫu rằng giàu nghèo hai đẳng cấp khác nhau nhưng không đề ảnh hưởng đến đức tính của con người.

Dù có rơi vào hoàn cảnh nào Vũ Nương vẫn giữ được phẩm chất tốt đẹp đoan chính của mình. Đối với đời sống hôn nhân, nàng luôn giữ đức hạnh đúng mực của một người vợ “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Cho đến khi chồng đi lính đánh giặc Chiêm, hoàn cảnh li biệt tiễn Trương Sinh đi lính, Vũ Nương chỉ một lòng mong muốn chồng được bình an mà không mang công danh lợi lộc nàng một lòng một dạ son sắt, thuỷ chung. Người mẹ hiền dâu thảo, yêu thương con, hiếu kính với mẹ chồng như đối với mẹ mình lúc còn sống hay khi qua đời.

Tưởng sự chờ đợi, hi sinh, một lòng một dạ chờ chồng của Vũ Nương sẽ được đền đáp nhưng cuối cùng lại bị chính những lời nghi kị của chồng mà tìm đến cái chết đầy oan nghiệt. Chỉ vì nghe lời không căn cứ của đứa con thơ mà Trương Sinh nghi oan cho người vợ tảo tần, dù được nàng phân trần khẩn thiết nhưng Trương Sinh vẫn không tin “mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Dù làm bao nhiêu cách, được mọi người hết sức bảo vệ minh oan nhưng Trương Sinh với bản tính đa nghi của mình vẫn một mực không tin. Lời nói đau đớn của Vũ Nương “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng … đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”, nỗi khao khát về một gia đình hạnh phúc của nàng tan vỡ, đó không còn là tình yêu mà là sự nghi kị của chồng, nàng đau khổ, tuyệt vọng và mất niềm tin vào cuộc sống.

Sự tuyệt vọng của nàng là nỗi oan khuất không ai rửa oan được, nàng chỉ đành mượn cái chết để tự rửa oan cho mình mà thôi. Lời nói với thần linh đầy đau đớn của nàng khiến mọi người không cầm được nước mắt “: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”-con người khi rơi vào đường cùng, không lối thoát chỉ có thể tự giải thoát cho mình bằng cái chết, quả thực đau đớn và xót xa quá.

Nàng được Linh Phi hoàng hậu cứu, đưa xuống thủy cung sống, tại đây sau hơn một năm sống dưới thủy cung, nỗi nhớ nhà, nhớ con mà nàng đau đớn đến ứa lệ, bóng nàng thoang thoảng trên mặt nước cho thỏa nỗi nhớ nhà, nhớ chồng nhớ con. Ôi, số phận người phụ nữ khi bị đẩy vào đường cùng sao mà bi ai, đau khổ quá!

Trải qua nhiều hoàn cảnh từ bình yên cuộc sống đến éo le cuộc đời, những lời nói, hành động, lời tự thoại cho thấy Vũ Nương là một người vừa đẹp nết lại đẹp người “tam tòng tứ đức”-“công dung ngôn hạnh”. Đáng lẽ Vũ Nương phải được hưởng cuộc sống đầy hạnh phúc sung sướng nhưng bi kịch ập đến khiến nàng phải chọn cái chết để rửa oan cho bản thân.

Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất vì hai nguyên nhân nguyên nhân gián tiếp và nguyên nhân trực tiếp. Nguyên nhân gián tiếp đó là: do chiến tranh, do lễ giáo phong kiến, người đàn ông được đề cao, người phụ nữ bị hạ thấp. Nguyên nhân trực tiếp:do chồng không tin tưởng, ghen tuông mù quáng, thói đa nghi không tin vợ của Trương Sinh; lời nói ngây thơ của con nhưng chồng lại không hiểu, Trương Sinh đa nghỉ, bảo thủ, nghi ki vợ, không có niềm tin ở vợ. Từ đó ta cảm nhận được điều gì về thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến: người phụ nữ bị khinh bạc, tiếng nói không được coi trọng, những bất công dành cho người phụ nữ đến cùng cực phải quyên sinh để minh oan.

Hình ảnh Vũ Nương trầm mình xuống sông như thể giải thoát cho bản thân khỏi những bế tắc, những nỗi oan khuất không ai rửa oan được của người phụ trong xã hội phong kiến xưa. Sự bất hạnh, bất công, áp bức lên người phụ nữ nói chung phải gánh chịu thực sự quá lớn, quá đau khổ

Việc đưa những chi tiết kì ảo vào chuyện đã tháo gỡ thút thắt của câu chuyện. Những yếu tố kì ảo trong truyện đó là: Phan Lang nằm mộng; Cuộc gặp gỡ của Phan Lang và Vũ Nương dưới động rùa; Cái bóng của Vũ Nương xuất hiện khi được lập đàn giải oan. Tác giả đưa những yếu tố kì ảo vào một câu chuyện quen thuộc, nhằm tôn lên những vẻ đẹp của Vũ Nương – cái thiện luôn thắng cái ác (nàng dược giải oan); thái độ thương cảm đối với thân phận của người phụ nữ trong thời phong kiến xưa và mang lại cái kết đẹp, hướng đến một tương lai mới cho người phụ nữ.

Cách dẫn dắt tình tiết câu chuyện, những lời trần thuật và những lời đối thoại trong truyện: sinh động, hấp dẫn, lôi cuốn, ý nghĩa truyện sâu sắc. Tình tiết truyện có nhiều nét mới so với nguyên bản tạo nên tính bất ngờ, mới mẻ, tính nhân văn sâu sắc. Lời trần thuật khách quan, tạo cảm giác gần gũi, làm cho câu chuyện có thật hơn. Những lời đối thoại, độc thoại mang lại hiệu quả vô cùng to lớn, giá trị nghệ thuật xuất sắc: từ cuộc sống nhẹ nhàng cho đến cao trào của truyện là Vũ Nương quyên sinh, đến cái bóng của nàng khi được minh oan.

Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình. Mang ý nghĩa nhân văn cao cả.

9
0
Nguyễn Minh Vũ
08/10/2020 05:39:53
+3đ tặng
A Giải thích vấn đề
– Chứng tích của một thời: Phản ánh được hiện thực của thời đại với những vấn đề đời sống nổi cộm, bức thiết của nó.
– Hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: Thể hiện được những vấn đề bản chất, cốt lõi của nhân sinh, những chân lí muôn đời, vượt qua giới hạn của thời đại.
– Ý kiến của Nguyễn Kiên không chỉ chia sẻ kinh nghiệm sáng tác của nhà văn mà còn nêu lên một yêu cầu cốt tử đối với nội dung truyện ngắn.
Khẳng định vấn đề
* Vận dụng kiến thức lí luận văn học để khẳng định vấn đề:
– Văn học là tấm gương phản chiếu cuộc sống, hiện thực là một thuộc tính tất yếu của văn học. Vì thế tác phẩm luôn in dấu những đặc điểm lịch sử xã hội của thời đại mà nó ra đời, là chứng tích của một thời. Nhà văn sâu sắc sẽ nhìn thấy trong chứng tích của một thời những “tính tình bất diệt của loài người”, những hằng số giá trị của cuộc sống muôn thuở, ấy là chân lí giản dị của mọi thời.
– Truyện ngắn bị giới hạn về dung lượng, nó thường phản ánh đời sống trong một lát cắt ngang, một khoảnh khắc. Nhà văn phải chộp được cái khoảnh khắc đắc địa, dồn nén, kết tinh những vấn đề cốt lõi, bản chất nhất. Vì thế truyện ngắn không chỉ phản ánh hiện thực của thời đại nhà văn sống mà còn thể hiện được những chân lí muôn đời.
* Thẩm bình một số truyện ngắn để khẳng định vấn đề, cần chỉ ra được “chứng tích của một thời”, “chân lí giản dị của mọi thời” chứa đựng trong tác phẩm.
B Mở rộng và nâng cao vấn đề
– “Vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời” không chỉ là yêu cầu nội dung của một truyện ngắn hay, mà còn là phẩm chất của mọi tác phẩm văn học đích thực. Vì thế văn học luôn giàu giá trị nhận thức.
– “Chứng tích của một thời” “chân lí giản dị của mọi thời” cần được gửi gắm trong nghệ thuật truyện ngắn độc đáo, ấn tượng: tình huống truyện bất ngờ, chi tiết đắt, kết cấu đặc sắc…Nhà văn phải có vốn sống phong phú, phải đào sâu tìm tòi mới có được một truyện ngắn hay như thế.
9
0
Nguyễn Minh Vũ
08/10/2020 05:40:07
+2đ tặng
Kết thúc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ có những chi tiết:
- Khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang ba ngày đêm, Vũ Nương đã hiện về trên một chiếc kiệu hoa, theo sau là xe, cờ tán võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện.
- Vũ Nương đứng giữa dòng sông, nói lời đa tạ với Trương Sinh, rồi bóng nàng loang loáng, mờ nhạt dần mà biến đi.
Nhận xét về chi tiết cuối cùng này, có ý kiến cho rằng: “Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái lung linh kỳ ảo”. Theo em, nhận xét này có đúng không? Vì sao? Qua đó Nguyễn Dữ đã gửi gắm tâm sự gì?
Bày tỏ được thái độ đánh giá của mình với ý kiến cho rằng:
- Tính bi kịch của cuộc đời, số phận người phụ nữ (Vũ Nương) vẫn tiềm ẩn ngay trong cái lung linh kỳ ảo.
- Dù cho câu chuyện có kết thúc phần nào có hậu, thể hiện khát vọng cuộc sống vĩnh hằng. Vũ Nương đã được sống một cuộc sống khác, ở một thế giới khác, giàu sang, được tôn trọng, yêu thương, xoa dịu nỗi đau trong lòng người đọc… nhưng tất cả chỉ là ảo ảnh. Dù cho Vũ Nương có trở về trong rực rỡ uy nghi nhưng cũng chỉ thấp thoáng, ẩn hiện và ngậm ngùi từ tạ: “…Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Người đã chết không thể sống lại, hạnh phúc thực sự đâu có thể làm lại được nữa. Đó chính là bi kịch.
[ Điều đó một lần nữa khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác giả muốn đề cao tiếng nói đấu tranh cho quyền sống của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư