LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tư tưởng độc lập dân tộc được nguyễn trãi thể hiện trong bài:"đại cáo bình ngô"

Phân tích tư tưởng độc lập dân tộc được nguyễn trãi thể hiện trong bài:"đại cáo bình ngô"

2 trả lời
Hỏi chi tiết
744
1
0
Hiển
08/04/2021 13:10:43
+5đ tặng

Nguyễn Trãi đã từng viết: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”, câu thơ đã cho thấy khí tiết, tấm lòng suốt một đời vì dân vì nước của ông. Nguồn gốc tạo nên tấm lòng đẹp đẽ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa là kim chỉ nam, chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo được viết cũng không phải nằm ngoài vòng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm này của ông.

Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân là khái niệm trung tâm của tư tưởng nho gia, nhân tức là yêu thương con người; nghĩa là những điều hợp lẽ phải, làm theo khuôn phép xử thế. Mạnh Tử đã kết hợp hai khái niệm này tạo thành “nhân nghĩa” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người phải yêu thương nhau. Đến Nguyễn Trãi, ông đã nâng tư tưởng lên một tầm cao mới, nhân nghĩa với Nguyễn Trãi không chỉ dừng ở hành xử yêu thương mà còn phải là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn “yên dân” và cách thức hành động chính là “trừ bạo”. Trừ bạo ở đây chính là tiêu diệt quân Minh xâm lược, để đem lại cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân dân. Cả đời ông luôn lo nghĩ cho dân, luôn mong nhân dân sống trong an ấm, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương”, ông lo cho dân bằng tất cả tấm lòng, tình yêu thương bao la. Đây là tư tưởng vô cùng tiến bộ và cho đến ngày nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Câu luận đề này chính là sợ dây đỏ để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ tác phẩm của mình.

Để làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lật mở những trang sử hào hùng trong quá khứ của dân tộc để thấy được thất bại thảm hại của những kẻ luôn mang tư tưởng xâm lược nước khác, giọng văn ở đây thật hào sảng:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Không chỉ ở quá khứ, mà ngay cả ở thời điểm hiện tại, quân Minh đã gây ra biết bao tội ác cho nhân ta: “Người bị bắt xuống biển mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”.Tội ác của chúng “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” khiến cho “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần dân chịu được?”. Đọc những câu thơ ta như cảm nhận được hết nỗi đau khổ, tủi nhục mà nhân dân đã phải chịu đựng suốt bao năm qua và càng căm tức hơn những tội ác của quân Minh đối với người dân vô tội.

Chính bởi tội ác khiến cả trời đất không dung tha như vậy nên Lê Lợi đã phất cờ, đứng lên khởi nghĩa, giành lại độc lập cho dân tộc: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/ Ta gắng chí khắc phục gian lao”. Chính Lê Lợi đã hiện thực hóa tư tưởng nhân nghĩa, tiêu diệt kẻ cường bạo để đem lại cuộc sống bình yên cho muôn dân: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sau bao năm tháng nếm mật, nằm gai, nghĩa quân trải qua biết bao thử thách, cuối cùng ngày một lớn mạnh, nhận được sự ủng hộ của muôn dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Toàn dân đoàn kết một lòng đem hết sức mạnh thể chất và tinh thần chống lại bọn cuồng Minh. Bởi đây là cuộc kháng chiến chính nghĩa nên thế và lực của ta ngày một cải thiện, từ thế bị động, yếu ớt ta chuyển sang thế chủ động, liên tục tấn công như vũ bão, giáng những đòn mạnh mẽ làm kẻ thù không kịp trở tay: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng đến đó, uy lực và sức mạnh không gì có thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”. Trái lại, kẻ thù lộ diện là những kẻ ham sống sợ chết, khi thất bại kẻ đầu hàng, kẻ dày xéo lên nhau hòng thoát thân: “lê gối dâng tờ tạ tội” “trói tay để tự xin hàng”. Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt thất bại thảm hại của kẻ thù với câu văn giàu hình ảnh: thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân,… Biện pháp liệt kê đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, giọng văn hào hùng, sảng khoái, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khẳng định lại một lần nữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng ấy đã đem lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta.

Tư tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong cách đối đãi với kẻ thù. Mặc dù giặc Minh gây ra những tội ác tày trời với nhân dân ta, nhưng khi chúng bại trận, thua thảm hại, cầu hòa, quân ta lập tức đồng ý: Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đây là hành động đối xử hết sức nhân văn, nhân bản với kẻ thù, cho chúng một con đường sống, cấp vài nghìn thuyền cho chúng về nước. Cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục, vừa tạo điều kiện cho nhân dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm dài gian lao chiến đấu, đồng thời đây cũng là cơ hội để triều đình mới xây dựng đất nước vững mạnh cả về kinh tế và quân sự. Quả là “Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”.

Chiến công oanh liệt được kết thúc bằng lời tuyên bố đầy khí thế, hào hùng: “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh”. Tư tưởng nhân nghĩa đã đem lại sức mạnh vô biên cho quân dân ta, giúp dân ta giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc mà còn cho thấy tư thế, tầm vóc của một dân tộc luôn sống và đề cao đạo lý nhân nghĩa.

Với ngòi bút chính luận sắc sảo, lập luận sắc bén hùng hồn, dẫn chứng phong phú thuyết phục, Nguyễn Trãi đã tạo nên một áng thiên cổ hùng văn cho muôn đời. Giá trị của áng thiên cổ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời cho đến mãi muôn đời sau

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nguyễn Nguyễn
03/07/2021 16:25:08
+4đ tặng

Nguyễn Trãi là một đại anh hùng của dân tộc là danh nhân văn hóa của thế giới cũng là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi là một tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn.

Trong số đó tác phẩm “Bình ngô đại cáo”là một tác phẩm kiệt xuất của ông. Bìa thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.

Mở đầu tác phẩm Nguyễn Trãi nêu lên một luận điểm về nguyên lí nhân nghĩa: “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính là “yên dân”. Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình yên ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược trước hết là để an dân để yên dân, Nhân nghĩa là tinh thần vì dân yên dân là chính nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc.

Nhân nghĩa ở đây chính là để cứu dân để trừ bạo. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu thơ trước đó: “quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn “trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa.

Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức là lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng chính là nhân nghĩa đối với nhân dân. Có thể nới tư tưởng ấy vừa cụ thể lại chỉ ra điểm cốt lõi điểm cơ bản nhất. Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì có lẽ tư tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo”

Người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của các thánh nhân trước đây và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc đến là lòng thương dân tin tưởng nhân dân biết ơn nhân dân. Dân chúng luân được ông nhắc đến trong chiến tranh và trong thời kì hòa bình đất nước độc lập.

Ông nhận thức rất rõ mọi sản phẩm mà mình đang dùng đều được lấy từ nhân dân. Nhân dân sản xuất ra mọi của cải vật chất , nhân dân làm ra lúc gạo quần áo làm ra cung điện nguy nga và nhân dân đã nuôi sống ông. Sống gần dân thương dân thương dân, lúc nào ông cũng chỉ nghĩ cho nhân dân trước tiên tất cả là vì nhân dân vài cuộc ống yên ổn của nhân dân dân.

Chính vì thế mà ta thấy ngay từ câu đầu tiên của bài cáo ông đã nhắc đến nhân dân. Bởi mọi hoạt động lớn nhất của quốc gia cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó là đem lại cuộc sống an nhàn cho nhân dân. Suốt cuộc đời ông sống gần dân nên ông đã thấy được những đức tính cao đẹp của nhân dân và hiểu được những mong muốn của nhân dân.Tư tưởng nhân nghĩa ấy như đã được nói ở trên đó còn là lòng bao dung với kẻ thù.

Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong khởi nghĩa Lam Sơn và có thể nới chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược quyết đoán của ông chính là nguyên nhân dẫn tới chiến thắng quân Minh của nhân dân ta. Ta kết hợp giữa sức mạnh của quân đội với những lí lẽ thu phục quân giặc làm hạn chế máu rơi và thiệt hại về quân sĩ. Đó chính là nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được thể hiện ở sự khoan dung khi kẻ thù đã bại trận.

Nó thể hiện đức hiếu sinh của dân tộc Việt Nam nói chung cũng chính là tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi trong khi đối phó với quân địch trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ta đánh địch bằng sức mạnh bằng ý chí sự căm thù quân giặc khi đã đem quân sang định cướp nước ta. Nhưng khi giặc đã bại trận ta cũng không nên trút sự căm giận đó thể tàn sát khiến cảnh máu chảy đầu rơi xảy ra. Ta chiến đấu cốt chỉ để lấy lại đất đai để toàn vẹn lãnh thổ đó chính là mục tiêu cuối cùng.

Vậy cho nên khi đã thắng trận ta cũng không tàn sát mà để cho bọn chúng một con đường lui để chúng được quay về đoàn tụ với gia đình người thân. Điều đó cũng sẽ khiến cho dân tộc ta được tôn trọng được coi trọng và biết ơn. Việc làm này cũng khiến cho quân Minh e dè mà không dám quay lại nước ta tấn công nữa.

Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh.

Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống “vang đến muôn đời”.Ta cũng có thể nói thêm về tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp nước giúp dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm rằng người hiền tài càng nhiều thì xã tắc mới càng được hưng thịnh nhân dân mới được ấm no hạnh phúc mới có thể đánh đuổi quân giặc không dám quay lại chiến đánh trên đất nước ta thêm một lần nào nữa.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư