Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao

7 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
1.999
0
0
Hải Hoàng
18/02/2017 20:49:38
Vấn đề cần triển khai về "Chí Phèo":
- Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. - Bá Kiến: Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi. - Chí Phèo: nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở. - Thị Nở: khát vọng: tình yêu <--> hạnh phúc --> làm người 
"người đàn bà đẹp trong lốt xấu xí" - hiện thân của khát vọng. )
- Xung đột mang ý nghĩa điển hình, cuộc đấu tranh xã hội không khoan nhượng
- Tâm hồn nhân hậu của Nam Cao và thái độ bi quan trước hiện thực của nhà văn

I. Đặt vấn đề:
Cách 1:Những năm 40 của thế kỷ, trên văn đàn hiện thực Việt Nam , Nam Cao nổi bật với những trang viết khai phá sâu sắc bi kịch của những kiếp người khổ đau trong bóng đêm của xã hội cũ. Những cuộc đời lầm than đi vào trang sách của Nam Cao đã sống mãi với thời gian. Gắn những nhân vật của mình vào không khí ngột ngạt tối tăm của chế độ thực dân phong kiến, nhà văn đã lột trần bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị, cảm thương sâu sắc nổi đau của con ngưòi. Tấm lòng nhà văn hướng về cuộc sống lầm than cơ cực của người nông dân, phát hiện trong những quẩn quanh bế tắc là bi kịch khủng khiếp hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chí Phèo, sáng tác đầu tiên của Nam Cao ra mắt người đọc từ tháng 2 năm 1941, đã có sức tố cáo bộ mặt vô nhân của xã hội và phản ánh bế tắc cùng cực của người nông dân. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, những trang viết sâu sắc đầy tình người vẫn sống mãi, gợi nhớ một quá khứ tủi nhục đau thương của dân tộc. Cách 2: 
Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc "Chí Phèo" của Nam Cao. Nhà văn đã mở ra một cuộc đời đầy bi kịch của một Chí Phèo - thù hận với tất cả: cuộc đời - xã hội - con người và ngay cả bản thân, một Chí Phèo triền miên trong những cơn say, mất cả lương tri, trên hành trình dài đằng đẵng của một kiếp sống không ra sống, trong không gian tăm tối ngột ngạt của xã hội Việt Nam đêm trước của cách mạng. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc vào một cuộc đời đau khổ và kết thúc trong cái vòng luẩn quẩn bế tắc. Để khi gấp trang sách lại, trái tim mỗi người vẫn còn thổn thức những buồn thương đau đớn trước bi kịch khó tin của những người không được làm người lương thiện trong xã hội cũ. II. Giải quyết vấn đề:

A. Tổng: (bao quát tinh thần của tác phẩm)
1. Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ do tài năng của Nam Cao đã tạo dựng được cốt truyện theo kết cấu rất hiện đại, mà trước hết xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc của nhà vănvới đồng loại của mình. Đằng sau lối kể chuyện lạnh lùng tỉnh táo là cả một trái tim nhân hậu đằm thắm đối với người nông dân - những người sống cùng tác giả. Những vấn đề Nam Cao đề cập trong tác phẩm đâu chỉ là cái nhìn sắc sảo, cách phân tích hiện thực tinh tế, mà còn gắn với quan niệm của nhà văn về cuộc sống, sáng lên tình cảm gắn bó, yêu thương trân trọng tất cả những giá trị cao đẹp gắn với con người của nhà văn. 2. Ánh sáng của tình người nhân hậu ấy đã giúp nhà văn phát hiện ra nguyên nhân của những tấn bi kịch đời người trong xã hội cũ, thắp sáng lên khát vọng mãnh liệt muốn trở về cuộc sống lương thiện. Nhưng trong bóng đêm dày đặc của xã hội cũ, ánh sáng ấy đã tắt ngấm với bao buồn thương bế tắc, trước khi ánh sáng của một ngày mới bừng lên quét sạch bóng đêm. Tuy vậy, ngọn lửa của khát vọng làm người vẫn âm ỉ nhức nhối trong từng câu chữ Nam Cao. 3. Bi kịch của Chí Phèo chỉ thật sự bắt đầu cùng với lần tỉnh rượu đầu tiên của nhân vật, chứa đựng tất cả sóng gió đi qua cuộc đời Chí Phèo, sau đêm trăng huyền thoại - cái đêm "trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng" - đã đem đến cho Chí một người đàn bà đích thực trong cái lốt xấu xí "ma chê, quỷ hờn": Thị Nở. B. Phân: (cảm nhận chi tiết - phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật):

Khoảnh khắc bi kịch của Chí Phèo
1/ Cùng với ánh sáng cuả một ngày mới, lần đầu tiên Chí Phèo nhận biết được những âm thanh đời thường: "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá". Cả một đoạn văn được viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết đã khắc họa rõ nét sự hồi sinh của tâm-hồn-người trong con-quỷ-dữ của làng Vũ Đại thật cảm động. Một cảm-giác-người đã thức tỉnh lý trí, nối kết quá khứ với hiện tại, một thời yên bình xa xưa và trước mắt là tuổi già, đói rét và ốm đau và cô độc. 2/ Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột "Chao ôi là buồn!". . Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời lương thiện: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏmột con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chao ôi là buồn! Vì mãi mãi cái ước mơ về hạnh phúc nhỏ nhoi ấy không bao giờ thành hiện thực, bởi bàn tay tội ác của những kẻ như Bá Kiến đã tước đoạt vĩnh viễn con-người-lương thiện của Chí ngày xưa. Nhưng trong hình hài quỷ dữ, vẫn ẩn náu giấc mơ ngày nào, dù chỉ nhớ lại một cách lờ mờ "hình như…" cũng đủ khẳng định cho sức phản kháng của lương thiện trước tội ác. Để khi hồi sinh thì không thể nào các thế lực hắc ám có thể bóp chết được lương tâm bé bỏng ấy. 3/ Phút lóe sáng của tâm hồn đã giúp nhân vật ý thức nỗi đau của một kẻ cô đơn giữa đồng loại của mình: "Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già củ hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nam Cao đã diễn tả đặc sắc và độc đáo giờ phút bừng thức của nhân vật, bằng lối văn đặc tả sự "bâng khuâng" trong tâm hồn Chí Phèo. Phút ban đầu ấy, quá khứ mơ hồ, hiện tại mơ hồ, tương lai mờ mịt đều nằm trong hai chữ "hình như…". Ở đó le lói ngọn lửa của một trái tim Người. 4/ Thị Nở xuất hiện cùng nồi cháo hành đã thổi bùng ngọn lửa mong manh ấy, đem đến cho trái tim Chí Phèo những nhịp đập đầu tiên của cảm giác tình yêu. Ngòi bút phân tích tâm lý của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình về lại với cõi người của Chí Phèo: bắt đầu từ ranh giới mong manh "hình như mắt ươn ướt" như một tiếng khóc chào đón cuộc đời mới, cho đến khi Chí Phèo gặp nụ cười Thị Nở là lúc tình yêu bắt đầu lên tiếng - giúp nhân vật ý thức đầy đủ về quãng đời đã qua. Bát cháo thứ nhất là ý thức về Tình Yêu và Dục Vọng. Bát cháo thứ hai là niềm sám hối về tội ác, mở ra khát khao hướng thiện mãnh liệt "Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn". Cùng với niềm khát khao ấy, Chí Phèo đã trở lại với bản chất của anh Chí ngày xưa: hiền lành, lương thiện. Con đường trở về được hứa hẹn bằng nụ cười tin cẩn của Thị Nở ,làm nở ra nụ cười Chí Phèo. Từ tiếng khóc đến nụ cười, Chí Phèo đã thật sự vươn dậy cùng khát vọng làm người. Thị Nở:

1/ Tình yêu và niềm tin mà Chí Phèo có được bắt đầu từ Thị Nở - nhân vật đẹp nhất của tác phẩm. Có thể những chi tiết mô tả ngoại hình Thị Nở làm nguời đọc nhớ nhiều và ấn tượng mạnh về người đàn bà nhan sắc xấu nhất trong lịch sử vă nhọc. Và những kẻ vô tâm, chỉ quan tâm hình thức câu khách rẻ tiền mà thờ ơ trước nỗi đau đồng loại mới cười cợt , gán ghép cho tác phẩm tên gọi sống sượng "Đôi lứa xứng đôi". Người đàn bà Nam Cao tạo ra để ban tặng cho Chí Phèo để giúp hắn trở lại làm người nếu là một mỹ nhân thì mới là điều lạ. Vẻ đẹp của Thị Nở không nằm trong hình thức mà bộc lộ ngay trong những nét "dở hơi" ngược với quan niệm xã hội. 2/ Người đàn bà đó có đủ đức tính của một người tình tuyệt vời, một người vợ tảo tần và có trái tim người mẹ bao dung, độ lượng. Trong cuộc gặp gỡ tình yêu Thị Nở - Chí Phèo, Nam Cao đã lột tả những vẻ đẹp ấy thông qua những chuyển biến tâm trạng Chí Phèo: người đàn bà đích thực đối lập với "con quỷ cái" bà Ba, "hắn muốn làm nũng thị như với mẹ". Thị Nở có đầy đủ phẩm chất của một người bình thường: biết lo toan, thương hại, có phút "lườm", "e lệ" trong cảm giác tình yêu và trên tất cả là tiếng cười tin cẩn như một phép màu giải thoát cho con người thoát ra mặc cảm tội lỗi. Có thể nói Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở bằng bút pháp hiện thực trữ tình để gửi gắm niềm tin của chính ông vào bản chất hướng thiện của con nguời. Thực tế trong đời có lẽ khó kiếm ra người nào hội tụ những cái xấu nhường ấy và đẹp nhường ấy. Nhưng cuối cùng Thị Nở vẫn phải trở về với mảnh đất hiện thực - nơi Thị có một bà cô già năm mươi tuổi chưa chồng, để được nghe lời phán xét tương lai cho mối tình Chí Phèo - Thị Nở. Nhân vật vẫn không có phép màu như trong cổ tích để có thể kéo hẳn Chí Phèo ra khỏi hình hài lốt quỷ để hoà nhập vào cuộc sống thân thiện của loài người, bởi bản thân Thị Nở cũng bị cả xã hội kia xem như "con vật ghê tởm nhất". Ta chợt nhận ra: cái gọi là hạnh phúc ở đời không dành sẵn cho những người như Chí Phèo - Thị Nở, đó là thông điệp đầy phẫn uất của Nam Cao. Tuy căm uất dâng tràn nhưng vẫn phải cố nén xuống trong giọng văn tỉnh rụi - bản lĩnh nhà văn đã không để ông can thiệp vào số phận nhân vật của mình một cách thô bạo, Nam Cao muốn những nguời đọc có lương tri phải thấu hiểu những khoảnh khắc xung đột của Thị Nở, của Chí Phèo sau giờ phút "thị trút vào mặt hắn nguyên vẹn lời bà cô". Đó là khoảnh khắc nẻo về của Chí đã bị chặn đứng bởi những định kiến xã hội về một con người đã có quá nhiều vết đen trong quá khứ - một kẻ "không cha không mẹ", chỉ có mỗi một "nghề rạch mặt ăn vạ". Đôi khi những định kiến thật tàn nhẫn, nó tước đoạt cơ hội cuối cùng của Chí Phèo trở lại cuộc sống bình thường. Nỗi đau Chí Phèo:

1/ Trong giờ phút tột cùng đau đớn của một người tuyệt vọng, nhà văn đã để nhân vật có những khoảnh khắc tâm trạng thật khó quên: "Hắn ngẩn người ra rồi chợt hiểu", "hắn sửng sốt đứng lên gọi Thị lại…". Chỗ dựa cuối cùng để Chí tưởng có thể đứng vững trên hành trình trở lại cõi người giờ đây không còn nữa! Ta có thể nhận ra nỗi bàng hoàng đến ê chề của Chí. Tất cả đều sụp đổ, hắn trở về với cuộc sống đầy bóng tối của mình. Nhưng điều không bình thường là ngay trong giờ phút ấy, "hắn thoáng hít thấy hơi cháo hành" - hơi cháo tình người đích thực mà Chí đã được ban tặng từ Thị Nở. 2/ Lại rượu, lại say, Chí muốn mượn rượu để quên đi thực tại, trở về với cuộc sống u mê lẫn lộn thật giả tốt xấu trắng đen thiện ác của loài quỷ dữ. Nhưng lương tri đã hồi sinh. Hơi cháo hành cứ lẫn cùng men rượu. Tiếng khóc bật ra "Hắn ôm mặt rưng rức khóc" . Chưa khi nào, Chí lại phải chịu đựng sự giằng xé của lương tâm dữ dội như vậy. Chí đang phải đối diện với chính mình, trong sự phán xét nghiêm khắc của lương tâm. 3/ Tưởng chừng tội ác đã thắng thế khi trong hơi rượu, Chí lại xách dao ra đi, miệng lảm nhảm ý định "đâm chết cả nhà con đĩ Nở". Nhưng hơi cháo hành đã quyện vào trong tâm hồn Chí, để giờ đây, tội ác không còn có thể sai khiến được hành động của anh. Phần người còn lại đã chiến thắng chất quỷ dữ, để sau bao nhiêu năm lầm lỡ, giờ đây Chí nhận rõ mặt kẻ thù, hành động có vẻ vô thức đã báo hiệu cho một tiềm thức sâu thẳm của người lương thiện trong Chí. Con quỷ dữ đích thực đã tước đoạt cả nhân tính lẫn nhân hình của Chí là Bá Kiến

Bá Kiến:
1/Bản lĩnh của một nhà văn và khả năng nhận thức sâu sắc thực tại xã hội đã giúp Nam Cao phác họa chân dung của giai cấp bóc lột một cách đầy đủ nhất so với các nhà văn đương thời. Bá Kiến được đặt vào một vị trí trang trọng trong xã hội, khi nhà văn phác họa nên một lai lịch của một kẻ già đời trong nghề bóc lột: gia đình bốn đời làm tổng lý, bản thân Bá Kiến từng là lý trưởng, chánh tổng; cha truyền con nối trong thủ đoạn đè đầu cưỡi cổ người khác. Những kẻ như thế, vẫn được gọi bằng ông, bằng cụ một cách tôn kính. Uy quyền của Bá Kiến không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi của một làng, mà "cụ Bá" là "bá hộ, tiên chỉ, chánh hội đồng kỳ hào, huyện hào, Bắc Kỳ nhân dân đại biểu " - đại biểu cho cả một bộ máy thống trị tay sai thực dân. Một nhân vật như thế, không thể là một kẻ hợm hĩnh và ngu dốt như Nghị Quế (Tắt đèn - Ngô Tất Tố) hay chỉ có tàn bạo và tham lam như Nghị Lại (Bưóc đường cùng - Nguyễn Công Hoan). 2/ Nam Cao đã phác họa bản chất Bá Kiến bằng những chi tiết khó quên từ bên ngoài đến bên trong: cụ Bá có tiếng quát rất sang để "nắn gân người khác", có nụ cười Tào Tháo giòn giã và "bản thân cụ cũng tự hào hơn đời cái tiếng cười ấy". Bên trong vẻ sang trọng là một con quỷ dâm ô, có tới bốn bà vợ mà còn đi cướp vợ người - khi còn làm lý trưởng đã không bỏ lỡ cơ hội ve vãn vợ Binh Chức. Nhưng điều nguy hiểm nhất ở Bá Kiến là tội ác đã được hắn nâng lên thành một nghệ thật cai trị kẻ khác: "mềm nắn, rắn buông", "dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò", "nắm lấy đứa có tóc", đặc biệt là những thủ đoạn rất nham hiểm:"Hãy vất người ta xuống sông rồi hãy vớt nó lên để cho nó đền ơn, hãy đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi hãy vất trả lại năm hào vì "thuơng anh túng quá"". Chưa một nhà văn nào lại giúp người đọc hình dung ra tội ác đáng sợ đến ghê tởm như Nam Cao. Với tất cả các thủ thuật trị người ấy, Bá Kiến quả là một kẻ "khôn róc đời" và đã phá tan cơ nghiệp của biết bao gia đình, đập nát hạnh phúc của bao nguời. Đáng sợ nhất là chính những nạn nhân của Bá Kiến lại bị hắn biến thành công cụ đắc lực của tội ác: Năm Thọ, Binh Chức - với bản tính lưu manh và đỉnh điểm là Chí Phèo - đã thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. 3/ Để Chí Phèo đến nhà Bá Kiến vào chính giờ phút "cụ Bá" đang ghen với lũ trai trẻ vì "bà Tư phốp pháp, hai má hây hây…" và cụ đang có ý định "bỏ tù hết mấy thằng trai trẻ", đoạn văn quả có thể làm chúng ta bật cười vì sự ghen tuông của một ông lão đã ngoài sáu mươi, nhưng ta bỗng giật mình vì chứng tích của sự ghen tuông đáng buồn cười ấy bỗng hiện ra: một thằng điên, một thằng say, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, sẵn sàng đâm chém bất cứ ai - ngày xưa nó cũng là một thằng trai trẻ…

Cuộc đụng đầu Chí Phèo - Bá Kiến:
Tình huống tất yếu phải xảy đến đã được Nam Cao dày công chuẩn bị cho nhân vật của mình. Khi sự thâm hiểm và tàn bạo đã bị bóc trần, khi những "tiếng cười và tiếng quát rất sang" của cụ Bá không còn nắn gân người khác như mọi khi đuợc nữa, đó cũng là khoảnh khắc thức tỉnh lương tri của một con người. Chí Phèo trong cơn say có những hành động thật đáng sợ. Nhưng có một điều, tiếng nói vang lên "dõng dạc" lại là của một con người hoàn toàn tỉnh táo, của một anh Chí đang đòi lại quyền "làm người lương thiện" đã bị bọn cường hào như Bá Kiến tước đoạt. Sự thật được nói lên, khiến Bá Kiến phải run sợ, "dịu giọng" để lảng tránh. Mặt nạ rơi xuống, Bá Kiến hiện nguyên hình là con quỷ dữ nham hiểm và hèn nhát đang cố trốn chạy sự trừng phạt của lương tri thức tỉnh. Nam Cao đã để cho Chí trong giờ phút ấy cất lên những lời đau đớn: " Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này?". Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe của xã hội. Muốn trở về, Chí "chỉ còn một cách" là giết chết con quỷ dữ trong chính anh. Giờ phút Chí vung dao lên kết liễu đời Bá Kiến là hành động tất yếu phải xảy đến, sau đó chính anh phải tự sát đã là một câu trả lời của Nam Cao giải đáp rõ nguyên nhân bi kịch của người nông dân nghèo trong xã hội cũ - sự bế tắc, quẩn quanh vẫn đè nặng lên cuộc sống của họ. Điều còn lại sau hai cái chết:

Không dừng lại sau hành động nhân vật đâm chết kẻ thù và tự hủy chính mình, Nam Cao đã dành khúc vĩ thanh để nói lên thái độ của mọi người sau hai cái chết bất ngờ. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, những phe cánh cường hào hí hửng vì loại được đối thủ mạnh mà không tốn công đổ sức. Cũng có nghĩa là làng Vũ Đại vẫn như xưa, vẫn cái cảnh đám cường hào chức dịch "hè nhau bóc lột con em đến tận xương tủy và nhè từng chỗ hở của nhau để trị". Một màu xám ảm đạm vẫn bao trùm lên cuộc sống, nó khiến những người lương thiện phải lo âu "tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng khác…". Và như vậy, cái chết của Chí Phèo - Bá Kiến thật vô nghĩa. Nhưng vẫn có một người nghĩ khác mọi người: Thị Nở. Chỉ có mình Thị còn lóe lên trong tâm tư hình ảnh của một con người "hiền như đất". Suy nghĩ ấy như một niềm an ủi cho vong linh Chí Phèo, ít ra cũng còn có một người thừa nhận anh là người trong thẳm sâu lốt quỷ. Người ta chỉ thật sự chết khi bị cuộc đời lãng quên, chối bỏ. Chí vẫn sống trong tâm hồn người đàn bà đích thực của cuộc đời anh. Có thể nhận ra ở chi tiết này thái độ chiêu tuyết cho nhân vật của chính Nam Cao, là niềm tin vào sự bất diệt của chất người sẽ không bao giờ bị hủy diệt. C. Hợp:

Chi tiết cuối cùng của tác phẩm lại là hình ảnh "cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…" là một ám ảnh về nỗi buồn nhân sinh của Nam Cao. Nơi đó, thằng bé Chí đã từng bị vứt vào đời, bị cuộc đời chối bỏ. Trong cái nhìn của Nam Cao ,chứa đựng triết lý nhân sinh sâu sắc: nếu không thay đổi thực tại, sẽ lại tiếp tục những bi kịch quẩn quanh không lối thoát của con người. Thị Nở có thể chấp nhận Chí Phèo, nhưng không thể đối mặt với thành kiến, với tập tục của làng xã. Bi kịch chửa hoang phải bỏ làng đi của con gái Tự Lãng vẫn còn đó. Cái lò gạch cũ là chứng tích của bao số phận bất hạnh, như là bản cáo trạng về một xã hội thù địch với những khát vọng làm người lương thiện, không thừa nhận tình người tình yêu vượt qua khuôn phép. Nam Cao đã kết thúc tác phẩm bằng nỗi buồn dằng dặc của những kiếp người mà ngay lúc ra đời đã là một sự vô nghĩa lý. Trong hoàn cảnh hiện thực lúc bấy giờ, chúng ta không thể trách thái độ bi quan của nhà văn trước hiện thực. Nhưng bản thân sự việc ấy đã gợi lên suy nghĩ nung nấu trong lòng độc giả về sự cần thiết phải thay đổi hoàn cảnh để tránh cho con người khỏi sa vào vòng luẩn quẩn. Đó cũng là ý nghĩa xã hội tích cực của tác phẩm Chí Phèo. III. Kết thúc vấn đề:

Đọc Chí Phèo, ta càng trân trọng tấm lòng đối với con người của nhà văn Nam Cao, hiểu được thái độ dũng cảm đối mặt hiện thực của một người cầm bút chân chính. Tác phẩm chính là minh chứng cho một quan niệm sáng tác đúng đắn của nhà văn, để "người gần người hơn". Có lẽ xuất phát từ tấm lòng ấy, tác phẩm vẫn sống mãi trong lòng bao thế hệ độc giả.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
1
Nguyễn Thị Mai Trang
18/02/2017 20:50:07
“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.

Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân lương thiện nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng “tiếng chửi”. Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.

Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.

Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mắt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm giếc và hành động tàn bạo.

Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.

Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật CHí Phèo. Đây là hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.

Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của CHí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo hành” là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.

Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”. Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.

Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.

Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.

Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội diển hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.
1
0
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
18/02/2017 20:51:30
​Chí Phèo là câu chuyện về đoạn cuối cuộc đời của một con người trong xã hội thực dân phong kiến diễn ra và được ghi lại bởi Nam Cao (1917 — 1951), mội ngòi bút bậc thầy cách nay đã hơn sáu mươi năm.
Mở đầu tác phẩm Chí Phèo xuất hiện trong tư thế khật khưỡng của kẻ say rượu vừa đi vừa chửi. Hắn chửi vung tất cả. Chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi những đứa khổng chửi nhau với hắn. Đây chính là lí do để ngay phần tiếp theo, tác giả  kể vể lai lịch của Chí. Hắn vốn là đứa trẻ từ khi mới đẻ ra đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch bò hoang, được người làng nhặt về nuôi, đi ở cho nhiều nhà khác nhau, cuối cùng đến năm 20 tuổi thì về làm canh điền cho Lí Kiến. Có thể vì ghen tuông, nghi cho bà ba vốn tính lẳng lơ có tư tình với anh canh điền khoẻ mạnh, Bí Kiến cho người bắt Chí giải lên huyện và đẩy vào lao tù.

Ngay sau khi ở tù về, Chí đã uống rượu say khướt rồi cầm vỏ chai đến cổng nhà Bá Kiến (lúc này Bá Kiến đã là Bá bộ) chửi Lí Cường con trai Bá Kiến xông ra hành hung Chí, được thể Chí đã dùng mảnh chai rạch mặt ăn vạ. Đang thế, Bá Kiến xuất hiện, lên giọng mắng Lí Cường rồi dùng lời ngon ngọt để an ủi Chí, lại mời Chí vào nhà thết đãi cơm rượu hậu hĩnh, cho Chí một đổng bạc đem về Chí vô cùng hả hê. Từ đó, khi nào hết tiền hắn ,lại đến ăn vòi. Lần thứ hai, Chí đến nhà Bá Kiến xin đi ờ tù lần nữa với cách lập luận đi tù còn có cơm ăn, ở làng mảnh đất cắm rùi cũng không có mà cái ăn cũng không, Bá Kiến lợi dùng cơ hội này nhờ hắn đi đòi nợ Đội Tảo 50 đồng và hứa sẽ,có vườn cho Chí. Sau khi Chí hoàn thành việc được giao, Bá Kiến cho vài hào uống rượu và cắt cho hắn 5 sào vườn ở bãi sông. Lúc này Chí mới 27, 28 tuổi. Cũng bắt đẳu từ đây, Chí trờ thành kẻ đâm thuê chém mướn, một công cụ đắc lực của Bá Kiến nhằm ức hiếp dân lành và thanh toán những kẻ có máu mặt trong làng nhưng không cùng vây cánh. Chí Phèo đã thực sự trở thành "con quỷ dữ của làng  Vũ Đại", ai ai cũng đều sợ hắn và tránh mặt hắn.

Một lần trong buổi tối sáng trăng, sau khi được uống rượu với Tự Lãng, hắn trở về túp lều ven sông định bước xuống tắm, tình cờ nhìn thấy Thị Nở đang nằm ngủ. Thị là người nghèo rót mồng tơi, xấu ma chê quỷ hờn lại ngẩn ngơ như người đẩn trong cổ tích Họ đã ăn nằm với nhau và đánh thức tình cảm bình thường cùng mong muốn làm một người bình thường trong Chí. Nhờ thứ tình cảm này mà bao nhiêu mơ ước hiền lành thời trai trẻ bỗng thức đậy, hắn muớn có một tổ ấm gia đình bình dị. Rôi Chí bị cảm. Thị Nở đã an cần chăm sóc, nấu cháo hành cho hắn ăn giải cảm... Tưởng được bền lâu, nào ngờ chỉ được vẻn vẹn năm ngày, đến ngày thứ sáu, bà cô thị Nở đi buôn chuyến trở về. Bà đã xỉ vả mắng nhiếc thị vì đã biết được chuyện giữa Thị với Chí Phèo. Do đấy, Thị Nở đến mằng Chí Phèo và bỏ mặc Chí trong tuyệt vọng. Thế rồi Chí khóc, Chí lại- tìm đến rượu, Khi say hắn dắt dao vào lưng, nói là đi đâm chết “nó", tức đâm chết hai cô cháu nhà Thị Nở. Nhưng bước chân khật khường của Chí cứ thế đến nhà Bá Kiến. Hắn xông vào Bá Kiến, vung dao đòi làm ngưòi lương thiện. Trong cơn tỉnh  say cuối cùng này. Chí đã vung dao đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu cuộc đời mình.

Nghe tin hai cái chết, trong lúc bao người, báo kẻ hả hê, Thị Nở nghĩ đến Chí “sao có lúc nó hiền như đất và nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn”. Thị lo mình có chửa. Khép lại câu chuyện là hình ảnh thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên  thị thấy caí lò gạch thoáng hiện , xa nhà cửa và vắng bóng người qua lại”

Đây là một truyện ngắn mà dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, có nhiều lớp thời gian..., mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Có thể  phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích-từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Đâu đi theo con đường nàó cũng cần làm nổi bật rõ nghệ, thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện. Sức mạnh của trúyện ngắn trước hết là chi tiết. Cách phân tích dưới đây cố gắng đi theo tình huống này.

Làng Vũ Đại, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng. Về kết cấu và ngôn ngữ truyện. Trước nhất phải kể đến kết cấu. Nếu xét về kết cấu hình tượng, truyện Chí Phèo cũng có một cốt truyện có thể kể được nhưng điều đáng nói ở đây là kết cấu văn hán truyện. Nam Cao đã rất có ý thức sáng tạo và huy động  kết cấu tham gia vào việc xây dựng nhân vật cũng như đắp bổi thêm bề dày, bề sâu các lớp nghĩa cho tác phẩm. Thứ nhất, Nam Cao sử dụng kết cấu vòng tròn. Đó là sự trở lại chi tiết “cái lò gạch bỏ hoang” ở phần kết truyện hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang nơi Chí bị bỏ rơi lúc mới đẻ ở phần đầu truyện được nhà văn sử dụng để cho Thị Nở đột nhiên thấy thoáng hiện ra khi nhìn xuống bụng, sợ nhỡ may mình có chửa. Kết truyện nay có sức gợi rất lớn. Điểu này gì nếu không: phải là khả năng tái sinh của Chí Phèo ? Chừng nào còn tồn tại cái xã hội kiểu làng Vũ Đại thì chừng đó sẽ còn nảy nòi ra loại người như Chí. Môi trường này cần được thay đổi. Nếu như đặt vấn để hãy cứu lấy nhân cách con người thì rõ ràng phải bắt đầu từ việc cứu lấy môi trường đă huỷ hoại nhân cách. Thứ hai, các thành, phẩn lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi; Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý và ham mê theo dõi ngay lập tức.

Về yếu tố ngôn ngữ truyện có nhiều điều có thể bán được nhưng ở đây chỉ xin đơn cử một cách thức sử dụng ngổn ngữ hết sức sáng tạo và độc đáo kiểu Nam Cao. Ông đã đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Điều này có tác dụng rất lớn cho phép nhà văn soi quét, lách sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động. Chỉ cần đơn cử đoạn mở đầu truyện là đã thấy thủ pháp nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đan xen, hoà trộn như thế’ nào. Đây là một kĩ thuật của ngôn ngữ tiểu thuyết hiện đại mà không phải nhà văn cùng thời nào với Nam Cao cũng đã biết và sử dụng. Hiểu như vậy mới thấy sự cách tân và đóng ghóp vào kĩ thuật tiểu thuyết của Nam Cao thực sự là không nhỏ và có nhiều-ý nghĩa cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.

Tóm lại, chỉ với tác phẩm Chí Phèo đã dù thấy Nam Cao trong buổi mạt kì của chủ nghĩa hiện thực phê phán nước ta đã có công đưa nó lên một tầm cao mới về cả nội dung và nghệ thuật trước khi nó im tiếng.
1
0
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
18/02/2017 20:52:11
“Chí Phèo” của Nam Cao là kiệt tác của văn học hiện thực phản ảnh đậm nét xã hội phong kiến đầy rẫy những tội ác và bất công, đồng thời khắc họa thành công hình ảnh người nông dân bị bần cùng hóa. Đọc những trang viết của Nam Cao, người đọc có thể mường tượng ra được bức tranh xã hội phong kiến nhiều ám ảnh.

Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh nhân vật Chí Phèo – một người nông dân lương thiện nhưng bị xã hội chèn ép, chà đạp, đẩy đến bước đường cùng thành kẻ sát nhân. Nam Cao đã để cho nhân vật Chí Phèo xuất hiện ngay đầu tác phẩm bằng “tiếng chửi”. Một loạt tiếng chửi của Chí Phèo như mở màn một cuộc đời nhiều tăm tối của hắn “Hắn chửi trời, hắn chửi đất, hắn chửi cả làng Vũ Đại. Hắn chửi đứa nào đẻ ra hắn…”.

Chí Phèo sinh ra tại một cái lò gạch cũ, được người làng truyền tay nhau nuôi, đến khi hắn đi ở cho Bá Kiến. Bá Kiến vì ghen tuông mà đã đẩy Chí Phèo vào tù, nơi đó bắt đầu hình thành những oán hận và cả nỗi đau. Chí Phèo đã dần đánh mất đi bản thân, đánh mất đi sự lương thiện. Sau mấy năm ở tù, CHí Phèo về làng, trở thành một con người khác. Nam Cao đã khắc họa rõ từng đường nét trên khuôn mặt của Chí Phèo, như phản ảnh sự đau lòng của chế độ và sự tha hóa của một đời người. Chí Phèo xuất hiện “Cái đầu thì trọc lóc, răng cạo trắng hớn, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Hình ảnh người nông dân hiền lành đã biến mất sau những năm tháng ở tù.

Xã hội đã cướp đi nhân cách, bản tính lương thiện và cả ước muốn làm người của Chí Phèo. Hắn trở về từ nhà tù, biến thành một kẻ chuyên đi rạch mắt ăn vạ, hắn phá tan đi bao nhiêu gia đình ở làng Vũ Đại. Cả làng ai cũng sợ hắn, vì bộ mặt gớm giếc và hành động tàn bạo.

Cuộc sống của một con người thay đổi hoàn toàn, hắn lấy nghề rạch mặt, đâm thuê chém mướn làm nghề sống. Chí Phèo bị người làng xa lánh, hắn trở về làm cho nhà Bá Kiến. Lại một lần nữa người đọc thấy được sự bế tắc, bước đường cùng của Chí Phèo. Hắn lại trở về nơi ngày xưa đã đẩy hắn vào cảnh cơ cực như bây giờ. Có lẽ đây chính là sự bế tắc của người dân thấp cổ bé họng trong xã hội phong kiến.

Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng thành công nhân vật CHí Phèo. Đây là hình tượng điển hình cho sự tha hóa trong xã hội phong kiến, là sự bế tắc, cùng đường lạc lối.

Nhưng Nam Cao đã không để cuộc đời Chí Phèo dừng lại ở đó, tác giả đã khơi gợi sự khát thèm yêu thương, khát thèm cuộc sống như một con người nơi hắn. Tình huống truyện Chí Phèo gặp Thị Nở ở vườn chuối sau lần hắn uống rượu say khướt. Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành đã khiến người đọc vẫn cảm thấy còn chút gì đó hi vọng cho một cuộc đời bình dị. Thị Nở xấu xí, thô kệch, nhưng lại là vết sáng trong cuộc đời tăm tối của CHí Phèo. Sự xuất hiện của Chí Phèo thực sự có ý nghĩa rất lớn đối với Chí Phèo, đánh thức lương tri, đánh thức bản tính lương thiện của hắn. “Bát cháo hành” là một chi tiết nghệ thuật giàu giá trị nhân văn, cho tình người còn lấp lánh giữa xã hội thối nát.

Sau khi gặp gỡ với Thị Nở, hắn thấy cuộc đời ngoài kia thật tốt đẹp, nghe thấy những người đàn bà đi chợ đang nói chuyện. Hơn hết có một chi tiết, một suy nghĩ khiến người đọc chùng xuống “Hắn thấy già yếu, bệnh tật, và cô độc còn đáng sợ hơn cả đau ốm bệnh tật…hắn khát khao làm hòa với mọi người”. Có lẽ đã đến lúc hắn nhận ra cần một cuộc sống như mọi người, không phải rạch mặt ăn vạ nữa. Cuộc sống bình dị ấy nhưng với Chí lại quá xa vời.

Xã hội phong kiến nghiệt ngã, không để cho Chí Phèo được làm người lương thiện khi bà cô của Thị Nở xuất hiện. Bà cô phản đối chuyện Thị Nở và Chí Phèo, còn dùng những từ cay độc để mắng mỏ Chí Phèo. Bà cô là hiện thân của xã hội phong kiến, cự tuyệt khát khao làm người, quyết dồn Chí vào bước đường cùng. Chính điều này đã khiến cho Hắn đau, rơi vào tuyệt vọng và quyết tìm đến nhà Bá Kiến để giết Bá Kiến.

Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công.

Nam Cao với ngòi bút sâu sắc đã xây dựng nhân vật điển hình trong xã hội diển hình như kéo người đọc về với thời kỳ đau thương của đất nước ta hồi đó. Nghệ thuật đặc tả tính cách, hành động đã khiến cho truyện ngắn thêm sinh động, hấp dẫn.
0
0
Nguyễn Thị Mai Trang
18/02/2017 20:53:05
Ở phần đầu truyện ngắn Chí Phèo, tác giả kể về nguồn gốc của nhân vật chính. Đó là một đứa bé bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng cạnh chiếc lò gạch bỏ hoang giữa đồng không mông quạnh. Tuổi thơ của nó bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ, không người thân thích, không một tấc đất cắm dùi, không được ai ban cho chút tình thương. Đó là cuộc đời khốn khổ của kẻ cùng hơn cả dân cùng ở nông thôn trước Cách mạng. Chí Phèo phải chịu đựng mọi nỗi bất hạnh như bao nông dân nghèo cực khác, nhưng điều bất hạnh lớn nhất là hắn không được sống bình thường ngay cả trong cuộc đời nghèo khổ lương thiện của mình. Chí Phèo bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng tính người, bị biến thành con quỷ dữ và bị gạt bỏ không thương tiếc ra khỏi cộng đồng làng xã.

Chí vốn là một chàng trai nông dân hiền lành, chất phác. Chỉ vì cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí Phèo bị đẩy vào tù. Bảy, tám năm bị đày đọa trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí lương thiện, ra tù hắn trở thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc và tâm hồn tội lỗi. Cái phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột, từ mặt mũi đến nhân cách đều biến tướng thành dị dạng, đáng sợ. Người ta thấy hắn say rượu triền miên và luôn mồm chửi bới tục tằn. Dân làng đều xa lánh, sợ hãi và ghê tởm hắn.

Trong một cơn say bí tỉ, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở, người đàn bà xấu xí, đần độn và quá lứa lỡ thì. Chút tình thương yêu mộc mạc, tự nhiên của Thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người hắn. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật.

Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy, lòng bâng khuâng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói, bàn tán của những người đàn bà đi chợ về… Bao âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay hầu như Chí Phèo không hề nghe thấy, bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say. Hôm nay, những âm thanh ấy vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi thôi thúc của sự sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo, gợi dậy cái mơ ước chính đáng một thời: hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm… Đó cũng là mong muốn của bao nông dân nghèo trong xã hội cũ.

Trái tim tưởng chừng như chai đá vì thù hận của Chí Phèo đã dần dần sống dậy khiến cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Hắn khao khát được trở lại cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại… Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp.

Nhưng chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của hắn vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Định kiến xã hội (thông qua bà cô Thị Nở) không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng, hắn ôm mặt khóc rưng rức và lại tìm đến rượu.

Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện?… Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách… biết không!

Căm thù cao độ và không còn lối thoát, Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Nỗi đau của Chí Phèo là không được làm người, không được nếm trải những vui buồn sướng khổ của đời người.

Chí Phèo chết trong niềm đau thương tột cùng bởi khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Câu hỏi cuối cùng trong những phút giây tỉnh táo nhất của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? chứa chất nỗi phẫn uất, đau đớn, làm day dứt lương tâm người đọc cho tới bây giờ.

Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề nhân sinh lớn: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời? Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo đã đưa nhà văn lên vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
0
0
Nguyễn Thị Thảo Vân
01/08/2017 00:13:05
Đề bài: Phân tích đoạn trích Chí Phèo của Nam cao
Bài làm
Tao muốn làm người lương thiện"
Không được ! Ai cho tao lương thiện ?..."
1. Mỗi lần nhớ đến nhân vật Chí Phèo của Nam Cao, tôi lại nghe văng vẳng bên tai mấy câu nói trên đây và hình dung rõ như in một gương mặt đàn ông vừa đáng thương vừa đáng sợ, vằn vện những vết sẹo dữ dằn. Từ đôi mắt nửa tỉnh táo, nửa đờ đẫn của anh ta ánh lên một cái nhìn thật thiết tha, khắc khoải. Cái nhìn pha lẫn cả hăm doạ với cầu khẩn, pha lẫn hận thù, khổ đau, sám hối và khát vọng,... Cái nhìn dường như không phải hướng đến một điểm, một người, mà hướng đến mọi điểm, mọi người.
Những lúc ấy, tôi hiểu rằng, đối với tôi, điều thú vị và tâm đắc mà tác phẩm Chí Phèo mang lại, thật giản dị và cũng thật sâu xa : đó là việc nhà văn đã nói thay cho những người khốn khổ như Chí Phèo một tiếng nói thật cảm động, thấm thía - tiếng nói khát khao được sống như một con người.

Phải, tiếng nổi khát khao được sống như một con người. Chỉ thế thôi, nhưng với Chí Phèo là cả một kì vọng.
Bởi hai tiếng "Con người" đối với người đàn ông thua thiệt, bất hạnh này là một cái gì thật tốt đẹp, mà cao xa. Đó là một viễn ảnh. Viễn ảnh ấy vừa như là một hồi ức, vừa là niềm ước mong ; vừa như một cái gì hiển nhiên, đã có, sắp có, lại vừa như một cái gì chưa có và còn xa, còn lâu Chí Phèo mới chạm tới được.
Sức sống tươi tắn của hình tượng chí Phèo chính là ở những chỗ như thế này. Sức sống ấy toát ra từ cả hình tượng lẫn ngôn từ, từ cả câu chuyện lẫn cách kết cấu.
Trong tác phẩm, để làm nổi bật tính chất viễn ảnh về con người và khơi sâu niềm khát khao tha thiết ấy ở Chí Phèo, ngoài phần kể tả về những ngày Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, thỉnh thoảng Nam Cao lại lồng vào bức tranh hiện tại bi đát của Chí Phèo một vài mẩu hồi ức vui, trong sáng :
- ..."Năm hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lí Kiến, bây giờ là cụ bá Kiến ăn tiên chỉ làng..."
- ..."Hắn lại nao nao buồn, là vì mẩu chuyện ấy nhắc cho hắn một cái gì rất xa xôi. Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm."
- ..."Hồi ấy hắn hai mươi. Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt. Người ta không thích cái gì người ta khinh."
- v.v.
Những hình ảnh bình dị như thế từng là có thật, rất thật trong đời Chí Phèo. Nhưng tất cả đã thuộc về hồi ức, tức là thuộc một thế giới khác, một cõi xa xăm. Rõ ràng là Chí Phèo rất tha thiết sống như một con người, ít nhất là con người đã có "năm hai mươi tuổi...", hoặc "hồi ấy...".
Giữa những trang kể về khoảng thời gian năm sáu ngày ngắn ngủi Chí Phèo tỉnh táo tận hưởng hạnh phúc, tình yêu bình dị mộc mạc mà ngọt ngào với thị Nở, và những câu, đoạn gợi lại hồi ức vui, trong sáng hiếm hoi như vậy, Nam Cao đã kể khá dài và khá kĩ về những cơn say, những tiếng chửi, những hành động đập phá đang đẩy Chí Phèo trượt dài xuống hố thẳm tha hoá. Càng lúc Nam Cao càng làm cho người đọc hiểu thấm thía cái giá để được sống như một con người. Gập ghềnh và cheo leo thay là con đường trở về với bản tính lương thiện của Chí Phèo!
Niềm khao khát làm người lương thiện ấy càng cháy bỏng trong đoạn nhà văn kể lại việc Chí Phèo đến nhà bá Kiến và dõng dạc tuyên bố yêu sách tối hậu của mình : Tao muốn làm người lương thiện". Nhưng : " - Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ có một cách... biết không !... Chỉ còn một cách là... cái này ! Biết không !...
Hắn rút dao ra, xông vào. Bá Kiến ngồi nhỏm dậy, Chí Phèo đã văng dao tới rồi. Bá Kiến chi kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa chém túi bụi vừa kêu làng thật to. Hắn kêu làng, không bao giờ người ta vội đến. Bởi thế khi người ta đến thì hắn cũng đã đang giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi. Mắt hắn trợn ngược. Mồm hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng. Ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra."
Đó cũng là trang cuối cùng đẫm lệ và đẫm máu trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo : Mấy mẩu đối khẩu căng thẳng đầy kịch tính vang lên, được điểm nhịp bằng những nhát dao bi phẫn, căm hờn. Và điều phải xảy đến đã xảy đến. Một kết cuộc thảm khốc : hai cái xác cùng đổ gục trên một vũng máu tươi,...
Khi trang cuối cuộc đời Chí Phèo sắp khép lại, người đọc đã hiểu rằng thế là hết, ước muốn "làm người" của anh vẫn chỉ là một ước muốn. Chuyện "làm người" thậm chí đã thành ảo ảnh chứ không còn là viễn ảnh nữa !
Thật đáng thương, Chí Phèo mắt vẫn "trợn ngược", "mồm ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không ra tiếng". Cơ duyên tìm cuộc sống lương thiện của anh đã đứt gãy giữa chừng.
2. Nhưng thế nào mới được xem là người ? Và vì lẽ gì mà một ước muốn làm người thật bình dị, đối với Chí Phèo lại thành ra quá xa vời, thậm chí, thành không tưởng như vậy ?
Thật ra, thế nào là quỷ, thế nào là người ? Thế nào là dữ, là bất lương, thế nào là hiền, là lương thiện,... ? Câu trả lời không dễ. Truyện ngắn của Nam Cao cũng không hề đưa ra một định nghĩa, một lời giải thích trực tiếp về những điều này. Nhưng đọc tác phẩm, mỗi người chúng ta đều có thể tự tìm được câu trả lời tương đối thoả đáng cho mình.
Câu trả lời có thể rút ra từ chính quan niệm và cách miêu tả của Nam Cao trong tác phẩm, nhất là từ các đoạn tả, kể về phần người của Chí Phèo trước khi đi ở tù và sau khi đã tỉnh rượu (trong sự đối chiếu với phần quỷ của Chí Phèo sau khi đi ở tù về và trước khi tỉnh rượu). Câu trả lời phần nào cũng có thể tìm kiếm từ những đoạn văn triết lí trữ tình của Nam Cao về bản tính và giấc mơ lương thiện của Chí Phèo, chẳng hạn :
"Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt" ; "Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện".
Theo cách đó, tác phẩm như ngầm đưa ra một lời giải thích quan niệm, một cách định nghĩa về con người và cuộc sống con người. Là người thì phải có khả năng sống bằng bàn tay và sức lao động của mình (như Chí Phèo sống bằng nghề làm canh điền cho lí Kiến). Là người thì phải biết sống tự trọng (như Chí Phèo biết tự trọng trước bà Ba). Là người thì phải có bạn, có người thân, có khả năng và được quyền sống thân thiện với mọi người (như Chí Phèo có thị Nở và sống chan hoà cùng thị Nở),...
Phải rồi, đã là người thì ít ra phải như thế. Khóc, cười, yêu ghét, buồn nhớ, giận hòm, bất bình, căm uất,... cũng phải như một con người.
Nhưng đây mới là điều tối quan trọng : ý thức về quyền sống như một con người, sống cho ra một con người. Là người thì có quyền đòi hỏi cả xã hội phải công nhận mình như một con người.
Hiểu như thế, người ta thấy càng đáng thương cảm cho Chí Phèo. Người đàn ông bị cả làng Vũ Đại xa lánh, từ chối này nào có ước muốn điều gì cao xa ? Chỉ là những gì tối thiểu và chính đáng nhất. Thế mà "không được !". Lỗi ấy tại ai và do đâu ?
Vì Chí Phèo ? Vì bá Kiến ? Vì định kiến xã hội làng Vũ Đại ?
Nam Cao đã không hề dễ dãi, đơn giản một chiều khi giúp người đọc tìm cách trả lời những câu hỏi nhức nhối này.
Bi kịch bị từ chối quyền làm người của Chí Phèo, tất nhiên suy cho cùng là xuất phát từ hiện thực xã hội đen tối của làng Vũ Đại, từ mưu ma chước quỷ của những kẻ cai trị sâu mọt, gian ngoan, thâm hiểm như lí Kiến. Nhưng cũng vì cả Chí Phèo nữa. Đưa Chí Phèo vào con đường tự huỷ hoại là bá Kiến, nhưng thực hiện các hành động, hành vi tự huý hoại ấy không ai khác, là Chí Phèo. Việc Chí Phèo không được trở lại làm người có thể giải thích bằng nhiều lí do. Có nhiều lí do khách quan lẫn lí do chủ quan. Nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là hai lí do này : Thứ nhất, định kiến xã hội quá nghiệt ngã là thứ rào cản không thể vượt qua ; thứ hai, Chí Phèo đã trượt dốc quá xa, đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn và trong Chí Phèo xuất hiện một thứ rào cản khác : rào cản tâm lí.
Lí do thứ nhất thuộc về phía khách quan xã hội, đã được bà cô thị Nở nói toạc ra : "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mạt ra ăn vạ." Ở cái làng Vũ Đại này, từ lâu, Chí Phèo đã thành "con vật lạ". Từ lâu, Chí Phèo đã sống ngoài rìa xã hội (một mình ở bên kia bờ đê). Chí Phèo chửi, người ta bỏ ngoài tai (thường chỉ có ba con chó dữ đáp lại thằng say rượu). Trong mắt người làng, cũng như bà cô thị Nở, Chí Phèo chỉ có thể sống kiếp thú vật ("chỉ có một nghề rạch mặt ra ăn vạ"), không thể sống chung với người, hoặc sống mà cũng như đã chết. Cái định kiến này sâu sắc, nghiệt ngã đến mức, giả dụ thị Nờ có trái lời bà cô, vẫn cứ chấp nhận chung sống với Chí Phèo, thì xã hội làng Vũ Đại vẫn không thể tha thứ và đón nhận anh ta.
Lí do thứ hai, thuộc về phía chủ quan Chí Phèo, liên quan đến sự tự ý thức của Chí Phèo. Đúng là Chí Phèo đã trượt dốc quá xa. Chí đã phạm quá nhiều tội lỗi (cho dù là phạm trong lúc say). Đến mức hầu như không thể tính sổ được với dân làng rằng anh "đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Món nợ ấy biết trả đến bao giờ cho xong để thanh thản trở lại làm người ? Khi Nam Cao lần thứ hai miêu tả ngoại hình Chí Phèo : "Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio ; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo. Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi ?", ta không nên hiểu đó là miêu tả chỉ để nhận dạng hay để thấy Chí Phèo đã mất hẳn nhân hình, mà quan trọng hơn, nhà văn như muốn nói với độc giả rằng, đấy, tội lỗi Chí Phèo còn ghi chằng chịt trên gương mặt kia, không bao giờ có thể xoá sạch dược. Nó sẽ trở thành một thứ mặc cảm tội lỗi, ám ảnh không nguôi phần đời tỉnh táo của Chí Phèo. Chính Chí Phèo trong cơn tuyệt vọng đã ý thức rõ hơn ai hết về điều này : "Không được ! Ai cho tao lương thiện ? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không !". Đến lúc tỉnh ra thì đã quá muộn : có bao nhiêu vết sẹo trên mặt thì cũng có bấy nhiêu vết thương không lành được trong tâm hồn. Bấy giờ ở Chí Phèo đã xuất hiện một thứ rào cản khác lại còn khó vượt qua hơn rào cản định kiến xã hội. Đó là rào cản tâm lí. Đến lúc đó, một cách tỉnh táo nhất, chính Chí Phèo cự tuyệt quyền làm người của mình bằng một án mạng và bằng những nhát dao oan nghiệt. Có lẽ một trong những nguyên do sâu xa nhất khiến Nam Cao dể cho Chí Phèo gặp thị Nở, tỉnh táo ăn cháo hành, đón nhận tình yêu, tình người,... chính là để chuẩn bị cho anh ta ý thức được đầy đủ - thoạt tiên thì chỉ lờ mờ, nhưng càng lúc càng rõ - tình cảnh bi đát, tuyệt vọng của mình.
Phải chăng vì vậy mà nhà văn đã miêu tả nhân vật của mình như một nạn nhân tuyệt vọng vừa đáng thương, vừa đáng trách ? Tuy nhiên, dù đáng thương nhiều hay đáng trách nhiều thì rốt cuộc Chí Phèo không thể tha thứ cho kẻ thù của mình cũng như tội lỗi của mình.
Nam Cao đã rất khách quan. Nhưng ông không vô tình. Trái lại, ông đã nhiêu lần kín đáo biện minh cho Chí Phèo.
Nhà văn quả là rất cận nhân tình khi viết rất nhiều cầu văn tương tự : "Chưa bao giờ hắn tỉnh...", "Có lẽ hắn cũng không biết rằng...", "Hắn biết đâu..." "Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả trong lúc say." Mà "Hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm". Và, hơn thế, ông còn tìm cách khẳng định thêm rằng : chính lúc Chí Phèo nhận ra là mình đã bị cả xã hội làng Vũ Đại gạt phăng mất cái quyền được làm người, thì niềm khát khao được sống như một con người càng cháy bỏng hơn bao giờ hết ; rằng : về bản chất, chưa bao giờ Chí Phèo là một gã lưu manh hay một tên quỷ dữ ; rằng : con người luôn phải chịu trách nhiệm về chính nó, nhưng con người cũng chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà thôi ; v.v.
Khi Chí Phèo ngắc ngoải chết trong vũng máu tươi, sau tiếng kêu tuyệt vọng, và những dòng đời bi thảm cuối cùng của anh ta khép lại, thì người ta không chỉ thấy giận (giận kẻ gieo tai hoạ cho Chí Phèo), thấy thương (thương một kẻ có số phận bi đát), mà còn thấy tiếc. Tiếc thay cho Chí Phèo. "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ" ; "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.", "Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi". Những cái "giá...", cái "sẽ...", cái "hay là..." như vậy - trong sự ngân vang của ngôn từ trần thuật - rốt cuộc cũng vẫn chỉ là ao ước, là giả thiết, là viễn ảnh, ảo ảnh mà thôi. Nó cũng thoảng qua, cũng mong manh như hương vị cháo hành của thị Nở mang cho Chí Phèo lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng vậy. Cháo hành "rất ngon" ăn hết từ hôm trước mà trớ trêu thay mãi đến hôm sau, khi bị thị Nở phũ phàng dúi ngã "lăn khoèo xuống sân", chí Phèo vẫn "thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành".
Cứ như thế, biết bao nhiêu là tiếc nuối cho cái cơ duyên "làm người lương thiện" của Chí Phèo đã được nhà văn thông qua nghệ thuật, gieo vào lòng người đọc, khiến người ta phải cùng ông thao thức mãi không thôi.
"Chí Phèo" là tiếng nói của niềm khao khát. Nhưng đó là tiếng nói bên trong, tiếng nói của một niềm khát khao bình dị được cất lên từ sâu thẳm tâm hồn.
Dựa theo sự miêu tả của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo, người ta hoàn toàn có quyền gọi nhân vật chính của truyện ngắn này - Chí Phèo - là một "thằng đầu bò", một "con vật lạ", "gã lưu manh" hay "tên quỷ dữ",... Cũng như vậy, người ta hoàn toàn có thể hiểu và tin rằng, từ trong bản chất, Chí Phèo là một người lao động lương thiện, một anh canh điền "hiền như đất". Nhưng dù là nhìn nhân vật từ cả hai phía, hoặc giả, nhìn chủ yếu từ phía này hay phía kia thì cái gã lưu manh hay cái người lương thiện trong Chí Phèo, ám ảnh người đọc không phải bằng hành động bên ngoài mà bằng một thứ hành động bên trong, tiếng nói bên trong : ám ảnh bằng những cơn địa chấn lớn lao của số phận cùng những vang động của nó trong chính tâm hồn anh ta.
Hầu hết những cảnh ngộ, những sự kiện tạo ra những va đập và biến đổi sâu sắc số phận, tính cách, tâm lí Chí Phèo đều được nhìn bằng con mắt bên trong, con mắt của nhân vật Chí Phèo và kể bằng tiếng nói tâm hồn, theo mạch suy tư của tâm hồn. Ai đó đã rất có lí khi gọi cách trần thuật và kết cấu truyện Chí Phèo là trần thuật và kết cấu theo dòng ý thức của nhân vật chính.
Sự lựa chọn này của tác giả là rất hợp lí và có ý nghĩa. Các diễn biến tâm lí và tiếng nói ở đây đều thuộc về một chủ thể : Chí Phèo.
Nương theo dòng ý thức và điểm nhìn của nhân vật, nhà văn, người đọc cùng nhân vật nhìn vào hiện tại, quá khứ, tương lai của anh ta. Từ đó, tác phẩm mở ra một hành trình để nhân vật chính tự nhận thức, tự phát hiện con người bên trong của mình. Hành động tự nhận thức và tự phát hiện này, đặc biệt từ sau khi Chí Phèo tỉnh rượu, được diễn đạt rất ấn tượng và hiệu quả bằng một kiểu lời vân nửa trực tiếp độc đáo và bằng một khung cú pháp đặc thù : Hắn + động từ tâm lí (Hắn thấy..., hắn nghe..., hắn sợ,...). Người đọc, vì thế, cơ hồ không cưỡng lại được, cứ trôi miên man theo dòng chảy cảm xúc, suy tư của Chí Phèo :
"Hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn...", "Hắn sợ rượu...". "Hắn lại nao nao buồn...", "hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc.". "Hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt hình như ươn ướt.". "Hắn húp một húp và nhận ra rằng : những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo hành ăn rất ngon".
Ngược về quá khứ, "nhớ đến bà Ba", "hắn chỉ thấy nhục, chứ yêu đương gì.". Nhìn vào hiện tại, hắn "trông thị thế mà có duyên", hắn thấy "như yêu thị", và khám phá ra rằng "đàn bà không có men như rượu nhưng cũng làm người say". Rồi, "hắn thấy lòng thành trẻ con", "hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ".
Và điều tự phát hiện này mới cực kì quan trọng : "Hắn có thể tìm bạn được, sao lại gây kẻ thù ?". Hoặc : "Trời ơi ! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện."
Cứ thế, mỗi một lần "Hắn thấy...", "Hắn .vợ...", "Hắn nhớ...", "Hắn muốn..." là mỗi lần cõi thầm kín của Chí Phèo dược tự nhận thức, tự phô diễn, cũng là mỗi lần niềm khao khát từ bên trong vang vọng lên tiếng nói làm tái tê, xao xuyến lòng nsười.
3. Trọng tâm của tác phẩm Chí Phèo không phải kể về quá trình lưu manh hoá mà vé quá trình thức tỉnh, vỡ lẽ của nhân vật. Những đoạn hay nhất cũng thuộc phần này (những diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ sau khi gặp thị Nở đến khi tự kết liễu dời mình).
Ở đây rõ ràng có nỗi đau, tiếng kêu tuyệt vọng, nhưng bao trùm, và sâu thẳm vẫn là tiếng nói khát khao. Khát khao được sống cho ra một con người : biết cười khóc, buồn vui như một con người, được yêu thương, hạnh phúc bình dị như một con người, được đón nhận bằng những vòng tay bè bạn như một con người. (Chí Phèo muốn xoá bỏ thù oán, để được sống trong tình thân hữu, tình yêu — tình yêu được xem như một biểu hiện đặc biệt của tình bạn, tình người).
Hơn bốn mươi năm vật lộn với đời, Chí Phèo chỉ được thực sự sống như con người trong vỏn vẹn năm sáu ngày ngắn ngủi, ấm áp tình người. Việc gặp và chung sống với thị Nở là một sự bù đắp cho Chí Phèo tất cả những loại tình cảm của giống loài mà trước đó anh chưa từng biết đến : Thị Nở đâu chỉ là người tình, thị còn là người yêu, hơn thế, còn như là bạn, là mẹ (không phải ngẫu nhiên mà Chí Phèo đón nhận tình cảm và sự săn sóc của thị Nở, phần nào tựa như đón tình mẹ ; thích được làm nũng như với mẹ, đón nhận bát cháo hành như đón hương vị thơm thảo của tình người).
Tiếc rằng, khi giấc mơ ấy sắp thành hiện thực thì cũng là lúc đổ vỡ tất cả, tiêu tan thành mây khói tất cả. Thế là, Nam Cao miêu tả Chí Phèo vỡ lẽ, tuyệt vọng mà làm cho người đọc choáng váng. Và, nhân vật càng tuyệt vọng, người đọc càng choáng váng thì tiếng nói khát khao được sống như một con người càng khắc khoải thiết tha.
Đọc sáng tác của Nam Cao, nhiều khi ta không khỏi sửng sốt, băn khoăn. Việc Nam Cao thường viết rất hay về những bi kịch, những nỗi niềm của nsười trí thức nghèo như Điền, như Hộ, như Thứ,... thực ra, cũng dễ hiểu.
Là một giáo khổ trường tư, một văn sĩ nghèo, bản thân ông từng nếm đủ buồn vui, đau thương và cơ cực của những cảnh, những người trong truyện, thì viết về người trí thức gần như là viết lại những gì ông đã sống.
Nhưng còn việc ông viết về đời sống của đủ hạng nông dân nghèo thì, hẳn là khó khăn hơn và xem ra không được thuận tay, thuận lí cho lắm. Thế mà ông vẫn viết rất hay, và nhiều tác phẩm ông viết về nông dân nghèo cứ như là chuyên của chính đời ông. Khả năng nhập cuộc, nhập vai của ông thật dáng phục và dáng trọng.
Điều đó càng chứng tỏ rằns Nam Cao có một cái nhìn thật tinh nhạy, mẫn cảm, sàu sắc, và một tấm lòng cảm thương hết sức tha thiết, chân thành đối với những khổ đau, khát vọng của con người.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×