LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cụ thể từng bản hiến pháp - GDCD 8

Cụ thể từng bản hiến pháp - GDCD 8
3 trả lời
Hỏi chi tiết
114
2
0
Nguyễn Nguyễn
02/09/2021 15:34:21
+5đ tặng
Các bản Hiến pháp Việt Nam đều ghi nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt NamNhận định: SAI. Gợi ý giải thích: Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 không có phần nào nói về Đảng. Bắt đầu từ Hiến pháp 1980 mới xác lập vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam (Điều 4 Hiến pháp 1980, 1992, 2013)

5 nấc thang lớn vươn tới Nhà nước pháp quyền XHCN
Về thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, GS. Hoàng Thế Liên nhấn mạnh: 5 bản Hiến pháp của nước ta (Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 có sửa đổi bổ sung vào năm 2001 và Hiến pháp năm 2013) là 5 nấc thang lớn vươn tới dân chủ và Nhà nước pháp quyền, đồng thời thể hiện sự nhận thức, tiếp cận ngày càng đầy đủ hơn học thuyết về nhà nước pháp quyền hiện đại.
Những tư tưởng về dân chủ, quyền lực nhân dân, sự ràng buộc quyền lực nhà nước bởi Hiến pháp và pháp luật, sự kiểm soát quyền lực nhà nước, sự thượng tôn pháp luật..., vốn là các nguyên tắc sống còn của Nhà nước pháp quyền, được Hiến pháp nước ta thể hiện một cách nhất quán theo hướng ngày càng đầy đủ và có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm thực hiện.
Điểm qua lịch sử lập hiến Việt Nam, có thể thấy rằng, Hiến pháp năm 1946 do Bác Hồ trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, tuy không nhắc đến khái niệm pháp quyền hay nhà nước pháp quyền, nhưng là bản Hiến pháp biểu hiện đầy đủ những yếu tố cốt lõi của nhà nước pháp quyền. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) là Hiến pháp đầu tiên khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, nhưng nguyên tắc pháp quyền lại chưa được quy định đầy đủ, xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp.
Phải đến Hiến pháp năm 2013 mới được đánh giá là bước tiến mới về chất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đã cụ thể hoá những nguyên tắc hiến định về nhà nước pháp quyền, Nhà nước ta đã có những cố gắng vượt bậc trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật vì dân chủ, nhân quyền và sự phát triển KT-XH của đất nước, thể hiện ở những thành công bước đầu quan trọng mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá.
Bảo đảm tính chính đáng, chính danh của Nhà nước
Phân tích quan điểm của Tổng Bí thư về “pháp quyền dưới chế độ XHCN là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước bảo đảm các điều kiện để nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và nhân dân”, GS. Hoàng Thế Liên nhìn nhận, cái gốc của nhà nước pháp quyền là xác lập dân chủ, thừa nhận và bảo đảm thực hiện quyền lực của nhân dân. Do đó, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải là sứ mệnh hàng đầu của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Quá trình dân chủ hoá đời sống xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân mà Đảng ta đã và đang lãnh đạo thực hiện cũng chính là quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Mức độ phát triển của dân chủ, của quyền làm chủ của nhân dân là tiêu chí cốt lõi đo lường mức độ hoàn thiện, tính hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN.
Từ nhận thức như vậy, trong thời gian qua, chúng ta đã tập trung tạo dựng được về cơ bản cơ chế pháp lý bảo đảm thực thi nguyên tắc nhân dân làm chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, quyền lực nhân dân là gốc, chi phối và quyết định quyền lực nhà nước. Các quyền hiến định của công dân, nhất là quyền dân chủ trực tiếp, đã được pháp luật từng bước cụ thể hoá, đang đi vào thực tiễn đời sống xã hội; trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân được thể chế ngày càng cụ thể hơn.
Đồng thời, quyền lực nhà nước được phân công ngày càng hợp lý, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vai trò của các cơ quan trong bộ máy nhà nước đều được Hiến pháp, các bộ luật minh định rõ hơn nhiều so với trước đây. Nhân dân với tư cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước có đủ điều kiện để nhận diện rõ hơn trách nhiệm của từng cơ quan nhà nước trước nhân dân.
Vị trí tối cao của Hiến pháp và luật được khẳng định; ý thức thượng tôn pháp luật được nâng cao khá rõ trong xã hội nói chung và trong bộ máy nhà nước nói riêng; ứng xử của Nhà nước đối với xã hội và thị trường đã bảo đảm theo tinh thần pháp quyền; sự kiểm soát quyền lực trong thực thi công vụ được bảo đảm theo hướng cán bộ, công chức có quyền càng lớn, chức vụ càng cao thì sự kiểm soát quyền lực càng chặt chẽ… Nhờ đó, tính chính danh của Nhà nước cũng được khẳng định.
Tuy nhiên, để nhân dân thực sự làm chủ thì không những nhân dân phải có đủ quyền mà quan trọng hơn là phải có đủ điều kiện và năng lực làm chủ; Nhà nước phải đủ mạnh, có hiệu lực và hiệu quả với ý thức phục vụ nhân dân, vì lợi ích công; Nhà nước phải thực sự trong sạch, vững mạnh, phòng ngừa và kiểm soát hiệu quả tình trạng tham nhũng và các biểu hiện tha hóa quyền lực.
Pháp luật cần được xây dựng và hoàn thiện trên cơ sở dân chủ, tiếp cận đầy đủ hơn với yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền, không chỉ là công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý xã hội, mà quan trọng hơn phải trở thành thiết chế để nhân dân thể hiện và thực hiện quyền lực của  mình.
Tạo dựng hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền
Về phương hướng hoàn thiện nhà nước pháp quyền, GS. Hoàng Thế Liên cho rằng, hướng tới xây dựng một đất nước “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, một quốc gia thịnh vượng, yêu cầu đặt ra hàng đầu là phải chú trọng hoàn thiện nhà nước pháp quyền nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực của Nhà nước; tạo dựng cho được một hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền. Theo đó, pháp luật không những phải được ban hành đúng thẩm quyền về nội dung và hình thức, đúng trình tự thủ tục luật định, mà phải bằng cơ chế dân chủ để thể hiện cho được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân và phải vì mục tiêu bảo vệ, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền con người, quyền công dân.
Tinh thần thượng tôn pháp luật, trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm phục vụ của Nhà nước trước nhân dân được đề cao và được hiện thực hoá trong đời sống xã hội; pháp luật phải thực sự là môi trường an toàn, lành mạnh, đủ rộng về không gian pháp lý để người dân làm ăn và sinh sống; pháp luật là cơ sở để tổ chức, thực hiện quyền lực nhà nước, được các cơ quan nhà nước nghiêm chỉnh chấp hành, áp dụng công bằng, nhất quán và không thiên vị.
Thông qua pháp luật thực hiện cho được sự phân công thẩm quyền thật rành mạch, trên cơ sở đó có phương thức phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tránh tình trạng chồng chéo, trùng lặp hoặc buông lỏng quản lý.
Đồng thời cũng cần xây dựng cho được một cơ chế pháp lý hữu hiệu kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm kiểm soát từ ba phía: Kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước với nhau (kiểm soát bên trong); kiểm soát quyền lực từ phía nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực thông qua việc ghi nhận, bảo đảm thực hiện quyền dân chủ đầy đủ hơn nữa; kiểm soát quyền lực thông qua việc tăng cường năng lực của các thiết chế kiểm soát chuyên nghiệp, trong đó cần sớm xây dựng cơ chế bảo hiến mà Hiến pháp năm 2013 đã giao cho luật định.
Muốn vậy, GS. Hoàng Thế Liên kiến nghị: Đảng cần khẩn trương xây dựng và ban hành Nghị quyết riêng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đặt ra chủ trương tổng thể, đồng bộ về cải cách lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu pháp quyền. Theo đó, cần đặt mục tiêu xậy dựng Quốc hội chuyên trách và chuyên nghiệp; xây dựng một Chính phủ mạnh, có đủ thẩm quyền với cơ cấu lại bộ máy tổ chức tinh gọn, đội ngũ công chức thực tài, đủ năng lực để thực hiện tốt nhất quyền hành pháp, chủ động khởi xướng và hoạch định chính sách sáng tạo, thực hiện chức năng quản lý và điều hành vĩ mô có hiệu quả, tổ chức và bảo đảm việc thi hành nghiêm pháp luật trên phạm vi toàn quốc, bảo đảm sự thống nhất, xuyên suốt của nền hành chính quốc gia phục vụ nhân dân.
Xác định tư pháp là xét xử, từ đó khẳng định cơ quan tư pháp là Toà án, được giao đủ thẩm quyền và tăng cường năng lực để đủ khả năng xem xét, giải quyết hầu hết các tranh chấp xảy ra trong xã hội, bảo đảm công lý; thực hiện sự phân quyền mạnh mẽ cho chính quyền địa phương theo hướng bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương đi đôi với việc tăng cường sự kiểm soát của cơ quan nhà nước cấp trên.
Đặc biệt, trong mối quan hệ với kinh tế thị trường và xã hội, Nhà nước được coi là thiết chế song hành và có vai trò kiến tạo phát triển, hỗ trợ tích cực. Vì vậy, cần xây dựng Nhà nước ta theo mô hình nhà nước kiến tạo phát triển, tận tụy thực hiện tốt các chức năng vốn có trong một nền kinh tế thị trường hiện đại trong điều kiện công nghiệp hoá, không thực hiện những công việc mà người dân (khu vực tư) có thể làm được.
Đồng thời tập trung xây dựng pháp luật, duy trì trật tự công trên thị trường và trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Nhà nước xây dựng và thực thi có hiệu quả các quy tắc pháp lý về sở hữu, quyền tài sản, tự do hợp đồng, tự do kinh doanh, giải quyết tranh chấp để mọi người dân, doanh nghiệp thực hiện tốt quyền tự do kinh doanh, nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất, hình thành hệ thống thị trường đồng bộ.
Nhà nước xây dựng và thực thi có hiệu quả các quy tắc pháp lý điều tiết các hoạt động kinh tế nhằm khắc phục những trục trặc, khuyết tật của cơ chế thị trường, chứ không phải làm thay thị trường, can thiệp vô lối vào thị trường.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nợn
02/09/2021 15:34:42
+4đ tặng
5 nấc thang lớn vươn tới Nhà nước pháp quyền XHCN
Về thực tiễn xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, GS. Hoàng Thế Liên nhấn mạnh: 5 bản Hiến pháp của nước ta (Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 có sửa đổi bổ sung vào năm 2001 và Hiến pháp năm 2013) là 5 nấc thang lớn vươn tới dân chủ và Nhà nước pháp quyền, đồng thời thể hiện sự nhận thức, tiếp cận ngày càng đầy đủ hơn học thuyết về nhà nước pháp quyền hiện đại.
Những tư tưởng về dân chủ, quyền lực nhân dân, sự ràng buộc quyền lực nhà nước bởi Hiến pháp và pháp luật, sự kiểm soát quyền lực nhà nước, sự thượng tôn pháp luật..., vốn là các nguyên tắc sống còn của Nhà nước pháp quyền, được Hiến pháp nước ta thể hiện một cách nhất quán theo hướng ngày càng đầy đủ và có cơ chế hữu hiệu để bảo đảm thực hiện.
Điểm qua lịch sử lập hiến Việt Nam, có thể thấy rằng, Hiến pháp năm 1946 do Bác Hồ trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, tuy không nhắc đến khái niệm pháp quyền hay nhà nước pháp quyền, nhưng là bản Hiến pháp biểu hiện đầy đủ những yếu tố cốt lõi của nhà nước pháp quyền. Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) là Hiến pháp đầu tiên khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, nhưng nguyên tắc pháp quyền lại chưa được quy định đầy đủ, xuyên suốt trong toàn bộ Hiến pháp.
Phải đến Hiến pháp năm 2013 mới được đánh giá là bước tiến mới về chất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đã cụ thể hoá những nguyên tắc hiến định về nhà nước pháp quyền, Nhà nước ta đã có những cố gắng vượt bậc trong xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật vì dân chủ, nhân quyền và sự phát triển KT-XH của đất nước, thể hiện ở những thành công bước đầu quan trọng mà Đại hộ
0
0
Vkiu Byeon Woo Seokk
02/09/2021 15:35:10
+3đ tặng
Lịch sử lập hiến Việt Nam đã trải qua những bước ngoặt to lớn cùng với sự ra đời của các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong quá trình đó, chế định bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng từng bước được hoàn thiện, điều này thể hiện cụ thể qua từng bản Hiến pháp. 
Hiến pháp năm 1946
Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Ngay sau đó, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Một trong sáu nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng và ban hành bản Hiến pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có Hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một bản Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”.
Ngày 09/11/1946, trong ngày làm việc thứ 12 Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá I đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp dân chủ rộng rãi được thể hiện ở chỗ, chủ thể được hưởng quyền dân chủ là đông đảo các tầng lớp nhân dân và nội dung của các quyền dân chủ biểu hiện ở nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến văn hoá - xã hội... Các quyền tự do dân chủ của công dân không chỉ được ghi nhận mà còn được đảm bảo thực hiện bằng giá trị pháp lý tối cao của Hiến pháp, nhiều nguyên tắc của Hiến pháp năm 1946, nhất là những nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Về chế định bảo vệ Tổ quốc, Hiến pháp năm 1946 đã đề cập đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, như quy định tại Điều 4: Mỗi công dân Việt Nam phải bảo vệ Tổ quốc; Điều 5: Công dân Việt Nam có nghĩa vụ phải đi lính...
Tuy nhiên, Hiến pháp năm 1946 vẫn chưa hoàn toàn hoàn thiện, vẫn còn những thiếu sót và hạn chế nhất định như không có quy định về điều kiện trở thành công dân Việt Nam, chưa có chương, điều khoản quy định riêng về chế định bảo vệ Tổ quốc…
Hiến pháp năm 1959
Hiến pháp năm 1946 là một Hiến pháp dân chủ tiến bộ không kém bất kỳ một bản Hiến pháp nào trên thế giới lúc bấy giờ, nhưng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần được bổ sung và thay đổi. Vì vậy, ngày 31/12/1959, tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I đã nhất trí thông qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố Hiến pháp. Hiến pháp năm 1959 tuy chưa có chương riêng quy định về chế định bảo vệ Tổ quốc, nhưng cũng đã dành riêng một số điều quy định về nội dung này như:
Điều 8: Lực lượng vũ trang của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà là của nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn và an ninh của Tổ quốc, bảo vệ tự do, hạnh phúc và sự nghiệp lao động hoà bình của nhân dân.
Điều 42: Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và cao quý nhất của công dân nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà.
Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự để bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 1959 còn có nhiều điều luật quy định về lĩnh vực quốc phòng, an ninh, như Điều 50, 63, 65, 74, 82.
Hiến pháp năm 1980
Thắng lợi vĩ đại của Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa Xuân năm 1975 đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử dân tộc ta. Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, cách mạng dân tộc dân chủ đã hoàn thành trong phạm vi cả nước. Nước nhà đã hoàn toàn độc lập, tự do là điều kiện thuận lợi để thống nhất hai miền Nam, Bắc đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trước những sự kiện chính trị quan trọng làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của đất nước, Quốc hội khoá VI, tại Kỳ họp thứ 7, ngày 18/12/1980, đã nhất trí thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980. Về chế định bảo vệ Tổ quốc được quy định tại Chương IV, bao gồm 3 điều. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vấn đề này được xây dựng thành một chương riêng trong Hiến pháp. Chương này xác định đường lối quốc phòng của Nhà nước (Điều 50), xác định nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân (Điều 51) và việc thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự (Điều 52). Cụ thể như sau:
Điều 50. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại trên cơ sở kết hợp xây dựng Tổ quốc với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Điều 51. Các lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ những thành quả của cách mạng, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, tự do, hạnh phúc và lao động hoà bình của nhân dân, cùng toàn dân xây dựng nước nhà.
Điều 52. Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chăm lo công nghiệp quốc phòng, huy động nhân lực, vật lực nhằm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.
Tất cả các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định.
Ngoài ra, Hiến pháp năm 1980 còn có một số điều luật khác có quy định nội dung liên quan đến quốc phòng, an ninh, như các điều 9, 11, 15, 16, 19, 29, 42, 43, 48, 66…
Hiến pháp năm 1992
Sau một thời gian thực hiện, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Trước yêu cầu đó, Hiến pháp năm 1992 đã được Quốc hội khóa VIII, Kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 15/4/1992. Bản Hiến pháp được ban hành trong tiến trình đổi mới, là sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước.
Chế định bảo vệ Tổ quốc được quy định tại Chương IV, bao gồm 5 điều. Về cơ bản, nội dung của Chương này giống như Hiến pháp năm 1980 là xác định đường lối quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, so với bản Hiến pháp trước, chương quy định về bảo vệ Tổ quốc của Hiến pháp năm 1992 có số lượng Điều luật tăng lên (02 điều), ngoài ra còn quy định bổ sung thêm về nhiệm vụ xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội (Điều 47)… Cụ thể như sau:
Điều 44. Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân.
Nhà nước củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân nòng cốt là các lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân phải làm đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh do pháp luật quy định.
Điều 45. Các lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước.
Điều 46. Nhà nước xây dựng quân đội nhân dân cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ hùng hậu trên cơ sở kết hợp xây dựng với bảo vệ Tổ quốc, kết hợp sức mạnh của lực lượng vũ trang nhân dân với sức mạnh của toàn dân, kết hợp sức mạnh truyền thống đoàn kết dân tộc chống ngoại xâm với sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Điều 47. Nhà nước xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, dựa vào nhân dân và làm nòng cốt cho phong trào nhân dân để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm sự ổn định chính trị và các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, tài sản xã hội chủ nghĩa, đấu tranh phòng ngừa và chống các loại tội phạm.
Điều 48. Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân, thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự, chính sách hậu phương quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần của cán bộ và chiến sĩ, công nhân, nhân viên quốc phòng, xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, không ngừng tăng cường khả năng bảo vệ đất nước.
Ngoài những quy định trên, Hiến pháp năm 1992 còn có một số điều quy định các nội dung về bảo vệ Tổ quốc, như Điều 13 quy định Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, mọi hành vi xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đều bị nghiêm trị theo pháp luật; Điều 77: Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng, quyền cao quý của công dân, công dân phải làm nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân…
Những quy định trên của Hiến pháp năm 1992 là căn cứ pháp lý để Nhà nước ban hành Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư... tạo thành hành lang pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu và từ thực tiễn thi hành, theo chúng tôi, các điều khoản quy định về bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đó vẫn còn có một số tồn tại, hạn chế, cụ thể như sau:
Một là, chưa có điều khoản quy định khái niệm “bảo vệ Tổ quốc”;
Hai là, chưa quy định rõ lực lượng vũ trang nhân dân gồm những lực lượng nào;
Ba là, để lực lượng vũ trang thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, cần phải có quy định trong Hiến pháp nội dung tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân nói riêng và sự nghiệp quốc phòng - an ninh nói chung.
Một số kiến nghị
Trên cơ sở kế thừa các quy định về quốc phòng an ninh trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), đồng thời thể chế hoá các quan điểm của Đảng trong thời kỳ đổi mới, nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hoà bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đề nghị sửa đổi, bổ sung một số nội dung quy định trong Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001), cụ thể như sau:
1. Bổ sung một điều khái niệm “bảo vệ Tổ quốc” vào đầu chương, có nội dung như sau:
“Điều 44a. Bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa”.
2. Tại các Điều 44, 45 và Điều 48 Hiến pháp năm 1992 có cụm từ “Các lực lượng vũ trang nhân dân”, đề nghị bỏ từ “Các” trước cụm từ trên và trong Hiến pháp cần quy định rõ “Lực lượng vũ trang nhân dân gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và dân quân tự vệ”.
3. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2011), đã được Đại hội XI của Đảng thông qua có đoạn ghi: “Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh”.
Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2011), đề nghị bổ sung một đoạn vào Điều 45 Hiến pháp với nội dung như sau: “Quân đội nhân dân, Công an nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chế định về bảo vệ Tổ quốc trong Hiến pháp năm 1992 là nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương, quan điểm được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 2011), Nghị quyết XI của Đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay; góp phần xây dựng Hiến pháp nước ta trở thành một Hiến pháp dân chủ, phù hợp với xu thế thời đại hiện nay, đảm bảo phát triển đất nước, ổn định chính trị - xã hội, thực hiện thành công mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo vệ được độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Giáo dục Công dân Lớp 8 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư