Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Lập dàn ý phân tích vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thương vợ của Trần Tế Xương

Lập dàn ý phân tích vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thương vợ của Trần Tế Xương 
3 trả lời
Hỏi chi tiết
891
1
1
Unnie
01/10/2021 11:11:12
+5đ tặng

iết về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, đã từng có rất nhiều những áng thơ văn nói lên nỗi khổ hạnh, buồn tủi của số phận nữ nhi bất hạnh, khổ đau. Nhà thơ Trần Tế Xương cũng vậy, người phụ nữ trong thơ ông không phải ai khác mà chính là người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh của mình. Với những tình cảm chân thành, mộc mạc, ông đã khắc họa lại hình ảnh bà Tú trong bài thơ “Thương vợ” một cách rất chân thực và giàu cảm xúc.

Bà vừa là một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh, vừa là một người mẹ giàu lòng yêu thương. Mọi khó khăn, khổ cực trên cuộc đời này chẳng là gì so với người phụ nữ can đảm, chịu thương chịu khó ấy.

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Hình ảnh một người phụ nữ tảo tần, vất vả ở mom sông – nơi ẩn chứa rất nhiều mối hiểm nguy, thậm chí có thể mất mạng bất cứ lúc nào – đã gợi lên bao cảm xúc cho người đọc. Trong thời buổi khó khăn, kiếm được đồng tiền rất cực khổ, nuôi được thân mình thôi đã là vất vả lắm rồi. Vậy mà bà Tú của Tế Xương còn phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. “Đủ” không những đủ ăn mà còn đủ mặc, dù không dư giả hay cao sang nhưng cũng không thiếu thứ gì. Mặt khác, hai vế của câu thơ “năm con với một chồng” giống như một chiếc đòn gánh vô hình nhưng rất dài đang đè nặng lên đôi vai gầy của người phụ nữ đáng thương. Nhưng bà không hề than vãn hay kêu ca nửa lời. Bà cam chịu, hi sinh bằng tất cả tấm lòng nhân ái và yêu thương của mình. Tế Xương đã tự ví bà với “thân cò” - một hình ảnh rất đẹp, rất nhân văn và quen thuộc khi nói về những người nông dân lam lũ, vất vả. Bà lặn lội khi quãng vắng, rồi lại “eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Trong hai câu thơ này, tác giả đã cố tình dùng phép đảo ngữ đẩy hai từ “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu để nhấn mạnh thêm nữa sự vất vả, bon chen của bà Tú. Người phụ nữ ấy không những yêu chồng, thương còn mà còn rất sắc sảo, nhanh nhẹn. Vì thế bà mới có thể vững chân làm nghề buôn bán quanh năm được. Nhất là trong lúc khó khăn, ai ai cũng cố gắng hết mình để giành giật lấy từng đồng từng xu, bà Tú cũng vậy, bà cũng phải bon chen lắm, nỗ lực lắm mới có thể “nuôi đủ năm con với một chồng”, cộng thêm cả bản thân bà nữa bảy người. Một mình bà nuôi cả bảy miệng ăn.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Nguyễn Nguyễn
01/10/2021 11:14:19
+4đ tặng

Trong sự nghiệp thơ ca phong phú, đa dạng của Tú Xương, "Thương vợ" được đánh giá là một trong những bài thơ hay nhất. Cái hay của bài thơ là đã thể hiện được một cách thấm thía, cảm động thái độ trân trọng, tri ân của nhà thơ đối với sự hi sinh, tảo tần của vợ. Quan trọng hơn từ tác phẩm này người ta thấy hiện lên bức chân dung về người phụ nữ Việt Nam với những nét phẩm chất điển hình.

Bà Tú tên tật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia "con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ". Bà nhẫn nại, cam phận làm người vợ thảo hiền, làm chỗ dựa tinh thần cho cuộc đời Tú Xương - một trí thức không gặp thời, long đong trên con đường sự nghiệp.

Có lẽ vì thế mà hình tượng người vợ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ của Tú Xương. Những bài thơ của ông viết về vợ thường mang nhiều sắc điệu: có khi là lời thủ thỉ tâm tình, lời bông đùa hóm hỉnh, cũng có lúc là nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng bao trùm tất cả vẫn là thái độ trân trọng cảm thông, sự hàm ơn chân thành.

Nói đến người phụ nữ truyền thống là nhắc đến không gian gia đình, ở đó người vợ có vai trò quan trọng trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp, danh vị của chồng. Bà Tú cũng không phải là ngoại lệ, nhưng vào buổi Tây, Tàu nhốn nháo, không còn đâu cái cảnh thơ mộng "bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ", bà Tú cũng phải cuốn theo guồng quay của cuộc đời phiền tạp, dạt theo cuộc bươn chải với đổi chác, bán mua:

"Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng"

Chân dung của bà Tú hiện lên không phải từ dáng vóc, hình hài mà từ không gian và thời gian công việc. "Quanh năm" không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kì hạn của thời gian, nó chứng tỏ cuộc mưu sinh không có hồi kết thúc. Không gian "mom sông" vừa có giá trị tả thực - là doi đất nhô hẳn ra lòng sông, vừa gợi lên không gian sinh tồn bấp bênh, chông chênh.

Bà Tú phải hằng ngày xuất gia chường mặt ra với đời bởi trên vai bà là cả một gánh nặng gia đình: "Nuôi đủ năm con với một chồng". Biết bao hàm ý toát lên trong cụm từ "nuôi đủ", nó vừa thể hiện sự chăm lo tận tụy chuyện cơm ăn áo mặc lại vừa hàm chỉ sự chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy ý vị "năm con với một chồng". Nhà thơ đã tự hạ mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi hổ, xót xa nhận ra mình cũng là một thứ con trong gánh nặng của vợ.

Ca dao xưa khi nói tới hình tượng người phụ nữ thường liên tưởng tới hình ảnh con cò:

"Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non"

Tú Xương đã vận dụng sáng tạo chất liệu ca dao trong hai câu thơ:

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông"

Nhà thơ vừa tiếp thu, vận dụng văn học dân gian lại vừa có những sáng tạo độc đáo. Với việc dùng từ "thân cò", tác giả vừa thể hiện danh phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ số kiếp lận đận của bà Tú. Trong cấu trúc cú pháp của câu thơ, biện pháp đảo ngữ đã được sử dụng nhằm nhấn mạnh, gia tăng tính chất âm thầm nhọc nhằn trong công việc của bà Tú. Nếu như hình ảnh "đò đông" thể hiện tính chất bấp bênh trong cuộc mưu sinh thì từ láy "eo sèo" đã diễn tả sinh động sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp, nhục nhằn trong công việc hằng ngày mà bà Tú phải chịu đựng.

Không chỉ tần tảo, lam làm, chịu thương chịu khó, bà Tú trong "Thương vợ" của Tú Xương còn là con người bổn phận vị tha, lấy hi sinh làm hạnh phúc và lẽ sống của mình.

Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ đã nói hộ nỗi niềm tâm sự của vợ, đó là thái độ chín chắn trước duyên phận, độ lượng trước gia cảnh. Hiện lên trong tâm trí người đọc là hình ảnh một người phụ nữ lặng lẽ an phận, ráng sức lo toan, không trách phận than thân, không phiền lòng phẫn chí. Việc vận dụng thành ngữ số từ "một duyên hai nợ", "năm nắng mười mưa" làm cho lời thơ trở nên cô đúc. Lời kể công, kể khổ của Tú Xương dành cho vợ trở nên trĩu nặng hơn, day dứt hơn. Sự cam chịu và đức hi sinh của bà Tú như càng nổi bật hơn.

Ý thức được nỗi nhọc nhằn gian truân của vợ mà không thể san sẻ, đỡ đần, hai câu kết của bài thơ là tiếng lòng mang nặng nỗi niềm chất chứa:

"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không"

"Thói đời" ở đây phải chăng là sản phẩm của buổi giao thời đã tạo ra những người chồng hờ hững? để rồi người phụ nữ phải mang gánh nặng trụ cột gia đình. Câu thơ thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách mình của nhà thơ đồng thời bộc lộ tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của người trí thức: trở thành người thừa ngay trong chính gia đình của mình.

Có thể nói với "Thương vợ", Tú Xương đã khắc hoạ rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau tiếng thơ là tiếng lòng tri ân trân trọng, cảm thông đồng thời là nỗi day dứt khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ thảo hiền.

6. Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Trần Tế Xương mẫu 5

Trong văn học Việt Nam thời kì trước, hình ảnh người phụ nữ đã trở nên quen thuộc trong những bài ca dao, những vần thơ bay bổng. Những người nghệ sĩ nhìn họ với sự đồng cảm, xót thương và yêu mến. Nhưng hiếm khi ca ngợi họ bằng giọng điệu của một người chồng như nhà thơ Tú Xương đã khắc họa hình ảnh vợ mình trong Thương Vợ:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đầu đông

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Tú Xương là một nhà thơ hào hoa phong nhã, có một chút ngông nhưng khi là một người chồng, ông luôn hết mực yêu thương và ca ngợi vợ của mình. Mở đầu bài thơ, ông khắc họa hình ảnh tảo tần của bà Tú với công việc hàng ngày:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Một người vợ đảm đang tảo tần, với nghề buôn bán, người vợ ấy "quanh năm" ở ven sông chăm chỉ với công việc của mình. Hai từ "quanh năm" diễn tả thời gian dài đằng đẵng, lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoàn, cứ năm này qua năm khác, bà buôn bán ở bờ sông, địa thế trắc trở, đó là một mô đất nhô ra sông, nơi những con thuyền dừng lại và diễn ra các hoạt động trao đổi buôn qua bán lại đông đúc và tạp nham. Một người phụ nữ có lẽ phải ở nhà dệt vải thuê thùa chăm sóc gia đình nhưng ngược lại bà Tú hàng ngày phải kiếm kế sinh nhai nuôi cả gia đình: "Nuôi đủ năm con với một chồng". Bà Tú không những vất vả đảm đang mà còn hết mực chăm sóc cho chồng con. Đặc biệt "năm đứa con" và "một chồng", nghe có vẻ khập khiễng nhưng đây là lối so sánh rất độc đáo và sáng tạo của tác giả khi nói về gánh nặng đang đè nặng lên đôi vai gầy của bà Tú. Vả lại, ông đặt mình bằng năm đứa con thơ là cách ông tự chế giễu chính mình, là đấng nam nhi nhưng lại là người tạo ra gánh nặng cho gia đình, cho vợ con. Bà Tú cần mẫn là thế, chỉ làm ra "nuôi đủ" chứ không thừa cũng không thiếu, sự khéo léo trong tính toán cuộc sống của người mẹ hiền ấy đã nuôi sống cả gia đình bảy người. Có lẽ "đủ" với ông Tú không phải là chăn ấm đệm êm mà còn nuôi đủ những thú vui cao sang, những lần nghe hát ả đào, uống rượu ngâm thơ,.. Chính sự hy sinh ấy khiến ông Tú vừa hổ thẹn vừa tự hào và thương xót vợ mình. Thương bà gầy gò vất vả:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đầu đông

Con cò trong ca dao xưa là biểu tượng quen thuộc cho những người nông dân cần cù chăm chỉ. Tú Xương cũng sử dụng hình ảnh này để tả thực về vợ mình. Nhưng ông có sự sáng tạo độc đáo mang đậm phong cách tác giả: "thân cò". Thân hình gầy guộc cặm cụi sớm hôm. Một chữ "thân" làm nổi bật thân phận nhỏ bé vất vả gian truân mà trong ca dao xưa cũng có câu:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn

Bảy nổi ba chìm với nước non

Không chỉ sử dụng hình ảnh " thân cò" mà tác giả kết hợp với đảo ngữ từ láy "lặn lội" nhằm nhấn mạnh sự vất vả gian truân của bà Tú nơi mom sông buôn bán quanh năm suốt tháng. Bất kể thời gian nào ngay cả "khi quãng vắng" mở ra một không gian mênh mang rợn ngợp u ám và sự khắc khoải khôn nguôi của thời gian vũ trụ. Chính giữa không gian rộng lớn ấy là hình ảnh nhỏ bé của người phụ nữ tần tảo sớm hôm. Có khi bà Tú lại ngược xuôi giữa "buổi đò đông" , sự bận rộn của bà lại một lần nữa tác giả sử dụng nghệ thuật đảo ngữ "eo sèo" gợi sự tấp nập ồn ã nơi chợ búa đông đúc, nơi người ta vì miếng cơm manh áo mà bon chen.

Với những vần thơ tiếp , tác giả như nhập vai vào chủ thể trữ tình, mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì con mà bà Tú một mình gồng gánh trên đôi vai:

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Duyên và nợ luôn gắn liền với nhau, Có duyên mới có nợ. Thường hai chữ ấy nói đến quan hệ phu thê thời phong kiến xưa. Nó còn mang nặng lễ giáo, tư tưởng xưa. Nhưng trong thơ Tú Xương, chữ duyên và nợ không trở nên nặng nề kết hợp với các thành ngữ "năm nắng mười mưa" , "một duyên hai nợ" tạo nên tính nhạc trầm bổng, sự hàm súc cho câu thơ. Cái duyên vợ chồng, cái nợ phu thê khiến bà Tú phải "năm nắng mười mưa" suốt những năm dài tháng rộng. Các từ chỉ số lượng như "năm, mười" song hành cùng hình ảnh thiên nhiên "mưa, nắng" làm tăng sự vất vả của bà Tú- một người vợ, một người mẹ đảm đang, không bao giờ than phiền trước số phận. Chính vì thế mà ông Tú đã cất tiếng nói thay cho người vợ tần tảo của mình:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.

Vì tình thương và lòng biết ơn vợ, ông cất tiếng chửi đời, chửi mình. Vì xã hội trọng nam khinh nữ kia đã biến ông thành ông chồng vô tích sự. Ông không còn ẩn mình dưới những lời ca ngợi bà Tú nữa mà xuất hiện cất tiếng chửi gay gắt có phần thô cứng: " cha mẹ thói đời". Câu chửi mang tính dân giã, suồng sã nhưng ngược lại hợp với giọng thơ trào phúng của Tú Xương. Ông coi thường cái xã hội Tây Tàu Lố Lăng, nạn thi cử khiến ông trở thành gánh nặng, thành người chồng vô tích sự không gánh nổi gia đình vợ con. Sự cay đắng, phẫn uất trong lòng mình đã phát ra với tiếng cười trào phúng, với cách tự chửi mình:" có chồng hờ hững cũng như không". Hai chữ "hờ hững" là thái độ dửng dưng, coi nhẹ trách nhiệm. Một ông chồng "hờ hững" chẳng thể lo nổi cho vợ con thì có lẽ "như không". Ta thà không có còn hơn là có đấng phu quân nằm trong chăn ấm đệm êm, vợ nuôi như vậy. Nhưng trong câu thơ, tuy sự trào phúng cao độ bộc lộ qua tiếng chửi của ông Tú, chính trong lời thơ ấy ẩn chứa một tấm lòng yêu thương, kính trọng và luôn dõi theo người vợ của mình. Có lẽ đây là cách ông Tú bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc với người vợ hiền tảo tần của mình.

Thi phẩm khép lại với hai câu thơ mang âm điệu day dứt, làm cho người ta phải suy nghĩ về cái xã hội bất công kia, thương cho thân phận bà Tú, xót cho cái tài năng của Tú Xương. Để lại trong ta những ấn tượng khó phai.

2
1
Tâm Như
01/10/2021 11:16:26
+3đ tặng

a) Mở bài

- Trình bày khái quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca trung đại: Được nhiều tác giả nhắc đến với tấm lòng trân trọng và niềm cảm thương sâu sắc cho số phận như Nguyễn Dữ, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du…

Thương vợ của Trần Tế Xương là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về hình tượng người phụ nữ. Bài thơ đã thể hiện thành công hình tượng bà Tú

b) Thân bài

* Hình tượng bà Tú - một người phụ nữ vất vả lam lũ

- Hoàn cảnh bà Tú:

+ Mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”

+ Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào, hết năm này qua năm khác

Video Player is loading.

This is a modal window.

The media could not be loaded, either because the server or network failed or because the format is not supported.
Play

X

+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

=> Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng.

- Sự vất vả, lam lũ, bươn chải khi làm việc:

+"Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát

+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu

=> Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ

Eo sèo… buổi đò đông: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu

- Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

=> Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

- Năm nắng mười mưa: số từ phiếm chỉ số nhiều

=> Sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú.

* Hình tượng bà Tú với những phẩm chất đáng quý, đáng trọng

- Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con:

+ “nuôi”: chăm sóc hoàn toàn

+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả gia đình, không thiếu

⇒ Bà Tú là người đảm đang, chu đáo với chồng con.

- Phẩm chất tốt đẹp của Bà Tú còn được thể hiện trong sự chăm chỉ, tần tảo đảm đang

+ “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên “âu đành phận”, không than vãn

+ “dám quản công”: Đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tần tảo, đảm đang, nhẫn nại.

⇒ Cuộc sống vất vả gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú

⇒ Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến

* Nghệ thuật thể hiện thành công hình tượng bà Tú

-  Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm.

-  Vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian.

-  Hình tượng nghệ thuật độc đáo.

-  Việt hóa thơ Đường

c) Kết bài

- Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú

- Trình bày suy nghĩ bản thân.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư