Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Cảm thụ về những câu hát châm biếm

giúp mk gấp với !!! Cảm thụ về những câu hát châm biếm gấp với !!!! mk đg cần gấp các bn viết nhanh hoặc tìm cho mk vứi !!! xin đó gấp với !!!! mk cần gấp lắm ạ 
2 trả lời
Hỏi chi tiết
174
0
0
Dtct
05/10/2021 06:54:58
+5đ tặng

Trong kho tàng - dân ca Việt Nam, cùng với những bài ca về tình cảm gia đình, những bài ca tình yêu quê hương đất nước, con người, những tiếng hát than thân, mảng ca dao châm biếm chiếm một số lượng đáng kể. Những câu hát châm biếm đã thể hiện khá tập trung những nét đặc sắc của nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Qua các hình thức ẩn dụ, tượng trưng, biện pháp nói ngược vù phóng đại, v.v. những câu hát châm biếm đã phơi bày các sự việc mâu thuẫn, ngược đời, phê phán những thói hư, tật xấu, những hạng người và hiện tượng đáng cười, đáng chê trách trong cuộc sống. Nói khác đi, ca dao châm biếm là vũ khí tinh thần sắc bén của nhân dân ta.

Trong số hàng trăm, hàng ngàn câu ca dao châm biếm, bốn bài trong văn bản Những câu hát châm biếm và ba bài đọc thêm mà học sinh lớp 7 được học có lẽ là tiêu biểu nhất.

Trước hết, chúng ta thử điểm mặt xem đối tượng nhân dân ta châm biếm, chê trách là hạng người nào, là hiện tượng gì ? Đó là "chú tôi" - một chàng trai làng - nào đó, là một ông thầy bói, là một "cậu cai" (trong bài học chính). Đó là một ông thầy cúng luôn tay gõ chập cheng, là "con mèo" - một loại quan chức, địa chủ trong làng. Đó còn là ông "quan tướng" (trong phần đọc thêm), về hiện tượng xã hội, ca dao châm biếm tập trung nói tới việc ma chay trong làng (bài 3, văn bản chính), hoặc cưới hỏi, lễ bái ở đình chùa... Tất cả những chân dung con người ấy điển hình cho loại người vô công rồi nghề, loại người chức sắc, quan lại từ nhỏ đến lớn, loại người chuyên nghề mê tín dị đoan,... Họ lười biếng, bê tha, gian dối, tàn ác, sách nhiễu nhân dân, gây ra biết bao hiện tượng tiêu cực trong xóm ngoài làng, gieo biết bao đau khổ cho nhân dân. Họ thật đáng cười, đáng chê trách và lên án.

Trước hết là cái anh chàng "chú tồi" mà tác giả bài ca muốn giới thiệu với "cô yếm đào" xinh đẹp, trẻ trung. "Chú" lười biếng và lắm thói hư, tật xấu. "Chú" nghiện rượu (hay tửu, hay tăm), nghiện chè (hay nước chè đặc), thường ngủ muộn, thích nằm dài mong nhiều "ngày mưa", ước đêm kéo dài (thừa trống canh) để không phải ra đồng cày ruộng. Tác giả bài ca đã sử dụng điệp từ ("hay" nhắc lại bốn lần, "ngày" hai lần, "ước" hai lần, "đêm" hai lần) gợi cảm giác kéo dài, quanh quẩn, rất bức bối, khó chịu. Đồng thời, lối chơi chữ, nói ngược (hay tửu, hay tăm, hay nước chè đặc,...) bên ngoài có vẻ như khen ông chú tài giỏi, nhưng thực ra là để giễu cợt, chê trách. Lời nhẹ nhàng, đùa vui hóm hỉnh nhưng ý nghĩa phê phán khá sâu cay.

Tiếp sau chân dung "chú tôi" là chân dung ông thầy bói và "cậu cai". Ở bài thứ hai, tác giả nhại lời thầy bói, ghi âm nguyên văn những lời phán của thầy trước một cô gái mê tín. Thầy đoán về những điều gì và phán thế nào ? Toàn là những điều quan trọng mà cô "đệ tử" ước ao điều tốt lành, điều mới mẻ. Nhưng thầy phán toàn là những lời vô nghĩa, những điều vốn nó như thế, hiển nhiên chẳng cần bói toán, suy đoán gì cả. "Số cô chẳng giàu thì nghèo - Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà...", đấy là thầy đoán về "tài lộc" của cô gái. Còn về "gia cảnh", về "nhân duyên" thì... "cô có mẹ, mẹ là đàn bà, có cha, cha là đàn ông, cô sẽ có chồng, có chồng sẽ có con, con gái hoặc con trai"... Rõ ràng cái nhà ông thầy bói này chỉ ba hoa, mồm mép, nói những điều ai cũng biết. Tục ngữ ta có câu "thầy bói nói mò". Ông thầy bói này không chí "nói mò" mà nói lăng nhăng, vô vị, thật đáng cười. Đáng cười hơn nữa là giọng nói của thầy. Tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật "nói nước đôi", nói phóng đại, càng nói càng vô vị, vô nghĩa. Rõ ràng, bài ca dao đã phê phán những ke hành nghề mê tín dị doan, lừa bịp lòng tin của người khác để kiếm tiền. Đồng thời, bài ca cũng giễu cợt, phê phán những người ít hiểu biết, thiếu niềm tin cuộc sống, tìm đến sự bói toán, lễ bái vu vơ, phản khoa học, nhiều khi thêm lo nghĩ không cần thiết "Bói ra ma, quét nhà ra rác". Cha ông ta từng nhắc nhở như thế. Phê phán ông thầy bói, bài ca dao đồng thời cảnh tỉnh chúng ta. Còn "cậu cai" - trong bài thứ tư - thì có gì đáng phê phán và cách phê phán thế nào ? Chân dung "cậu cai" được vẽ bằng hai nét đối chọi nhau. Hằng ngày cậu ăn mặc khá sang trọng, nào "nón dấu lông gà", nào "ngón tay đeo nhẫn". Nhưng khi có công việc, cần sự sang trọng, cần uy quyển thì "Áo ngắn đi mượn, quần dài di thuê", nghĩa là cậu chẳng có của cải, tài năng đích thực gì. Đó là một thân phận rởm, uy quyền rởm mà thôi ! Tác giả dân gian đã dùng nghệ thuật đối lập (bên ngoài oai vệ bên trong tầm thường) kết hợp với cường điệu (ba năm một chuyến sai, áo mượn, quần thuê) để hạ bệ "cậu cai", cũng có nghĩa là châm biếm, phê phán tầng lớp thống trị xưa. Chúng lố lăng, bắng nhắng, nhưng bản chất thì rất tầm thường, quyền hành thảm hại đến nực cười...

Cũng với chân dung con người cụ thể, ca dao châm biếm còn vẽ lại khá nhiều bức tranh xã hội dáng chê trách. Đó là cảnh một đám tang ở nông thôn trong bài ca dao thứ ba. Điều thú vị là tác giả sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng. Các nhân vật trong đám tang đều là những con vật. Tang chủ là gia đình cò - một loại nhà nghèo, thân phận bé mọn. Có người thân chết, "cò con" lo "làm ma", vừa đau thương vừa bối rối. Vậy mà những bạn bè, người thân xa gần kéo đến thì ồn ào, nhốn nháo, không phải để chia buồn, giúp đỡ việc tang. Trái lại, "cà cuống" thì uống rượu. Chim ri thì "lấy phần". Chào mào "đánh trống". Chim chích "vác mõ đi rao", chắc là để báo tin cho cả làng biết, tiếp tục kéo đến... Mỗi con vật ẩn dụ một loại người trong làng xóm, đủ cả già trẻ, trai gái, bề trên, kẻ dưới,... Những từ đặc tả, từ láy, từ ghép "la đà", "ríu rít", "cởi trần",... chụp được những chân dung cử chỉ, hành động thật cụ thể, rất rõ nét. Cảnh tượng ấy hoàn toàn không hợp với việc tang. Một việc đáng buồn thương, nghiêm chính bỏng trớ nên một màn hài kịch, thành cuộc đánh chén, chia chác om sòm. Thật chua chát, đáng cười và ... đáng khóc. Bài ca dao đã nghiêm khắc phê phán một hủ tục của làng quê ngày xưa...

Mỗi bài một giọng điệu, với những biện pháp nghệ thuật, bật ra những tiếng cười khác nhau, nhưng chùm ca dao châm biếm này đều giống nhau là: nghiêm khắc phê phán những con người xấu xa, những hiện tượng xã hội tiêu cực. Đó là vũ khí tinh thần sắc bén mà nhân dân ta đã sử dụng để mong muốn xoá bỏ những cái xấu, cái ác, mong muốn xây dựng một xã hội, những con người lành mạnh, lương thiện. Tuy đây là lời người xưa, nói về ngày xưa, nhưng đọc, rồi hiểu và suy ngẫm, chúng ta vẫn thấm thía những bài học thiết thực cho ngày nay...


 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Nt Manh
05/10/2021 07:01:53
+4đ tặng

Ca dao là một thể loại tiêu biểu của văn học dân gian Việt Nam, những bài ca dao khi là lời thổ lộ tâm tình, khi là những giãi bày tâm sự, tình cảm thầm kín sâu sắc, khi là những tiếng cười hài hước, và cũng có khi đó là những câu ca châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu của con người, của xã hội. Việt Nam có một hệ thống lớn những bài ca dao châm biếm hài hước, đó là những bài ca đả kích những thói xấu, những điều tiêu cực trong tính cách, cũng như những hạn chế của xã hội. Mượn tiếng cười để phản ánh khiến cho những bài ca dao châm biếm không chỉ có giá trị nội dung triết lí mà còn mang tính thẩm mĩ, đặc sắc về nghệ thuật.

Những câu hát châm biếm thường mượn tiếng cười để đả kích những cái xấu trong xã hội, đó là những hạn chế, những thói xấu tồn tại trong tính cách của con người, cần lên án để khắc phục. Tiếng cười khiến cho lời phê phán ấy trở nên ý nhị, sâu cay hơn, mặt khác thể hiện được thái độ của người nói đối với người nghe. Trước hết, ca dao châm biếm thói ham vật chất, vinh hoa phù phiếm qua hình ảnh bà già đi chợ cầu Đông:

“Bà già đi chợ cầu Đông

Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng

Thầy bói gieo quẻ nói rằng

Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”

Nhân vật châm biếm trong bài ca dao là một bà già tuổi xế chiều, trong một lần đi chợ Cầu Đông thì bà ta đã đi xem bói hỏi xem lấy chồng có lợi gì chăng. Yếu tố gây cười ở đây ở chỗ, bà già đã quá tuổi để dựng vợ gả chồng, không lo tĩnh dưỡng tuổi già mà lại đi xem bói hỏi về việc chồng con. Yếu tố gây cười thứ hai chính là việc lấy chồng của bà ta không phải mưu cầu hạnh phúc lứa đôi mà xem có lợi gì không. Thái độ châm biếm của tác giả dân gian thể hiện qua câu trả lời của thầy bói, tác giả đã sử dụng từ đồng âm nhưng khác nghĩa để đáp lại lời hỏi của bà lão “Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn”. Lợi mà bà lão nói đến là những lợi ích về vật chất, nhưng lợi mà thầy bói nói đến lại là một bộ phận trên cơ thể con người. Bài ca dao phê phán thói ham vật chất, vinh hoa một cách mù quáng ở con người.

“ Số cô chẳng giàu thì nghèo

Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà

Số cô có mẹ có cha

Mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông

Số cô có vợ có chồng

Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai”

Xem thêm:  Phát biểu cảm nghĩ về bài ca dao:Người ta đi cấy lấy công…yên tấm lòng

Bài ca dao trên đây lại phê phán thói mê tín dị đoan của người nông dân trong xã hội xưa, họ không chịu lao động mà chỉ trông mong cái gì tốt đẹp xa vời. Người phụ nữ trong bài ca dao đi xem bói nhưng lại được “thầy” phán những điều tất nhiên mà bất cứ người nào cũng biết, hoàn cảnh sống không giàu thì chỉ có thể là nghèo, và dẫu có nghèo đến mấy thì ngày ba mươi tết cũng có thịt để treo trong nhà. Và câu trả lời mẹ cô đàn bà cha cô đàn ông khiến cho chúng ta phải bật cười, đây đều là những sự thật, quy luật của cuộc sống, những điều ai cũng biết thì đâu cần xem bói. Bài ca dao phê phán những thầy bói rởm, dùng những lời lẽ bịa đặt để ăn tiền, và châm biếm những con người thụ động, mê tín chỉ biết trông vào sự may mắn của số phận.

“Làm trai cho đáng sức trai

Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng”

Câu ca dao châm biếm những người đàn ông mang tiếng là trụ cột của gia đình nhưng không có sức khỏe, không làm nổi những việc tầm thường nhất, đó chính là thói công tử, yếu đuối nhu nhược không có chí của người đàn ông, sống “ăn bám”, nhờ cậy vào vợ, vào gia thế của gia đình. Câu ca dao là lời châm biếm của chính người vợ về người chồng của mình. Theo lời của chị vợ thì chồng chị ta không đáng mặt nam nhi, yếu đuối vô dụng, không làm nên trò chống gì. Hạt vừng là loại hạt vô cùng nhỏ bé, vậy mà người chồng khom lưng chống gối mới gánh được hai hạt. Câu nói hàm ý chỉ sự vô dụng, bất tài của người chồng.
 

Cũng nói về người chồng bạc nhược, vô dụng, người vợ trong câu ca dao sau cũng thể hiện sự châm biếm sâu sắc với người chồng của mình:

“Chồng người đi ngược về xuôi

Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo”

Theo lẽ thường, người đàn ông là người gánh vác công chuyện của cả gia đình, người phụ nữ chỉ là người nội trợ lo việc bếp núc, nhà cửa, con cái. Nhưng dường như trong câu ca dao này vị trí của hai người bị hoán đổi. Người chồng nhu nhược, yếu hèn đến mức quanh quẩn ở xó bếp, trông chờ vào sự lao động của người vợ “Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo”

Những bài ca dao châm biếm đã đả phá sâu sắc đến những thói hư tật xấu trong xã hội. Đó là những lời đả kích, châm biếm ý nhị mà sâu cay cùng với đó là những bài học triết lí vô cùng sâu sắc.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Trắc nghiệm Ngữ văn Lớp 7 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500K