LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Giải bài có thưởng!

Cảm nhận đoạn thơ: "Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng ... Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

cảm nhận đoạn thơ:
Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Từ đó hãy bình luận ý kiến sau : thơ của huy cận là sự cách tân đích thực
AI CÓ NĂNG KHIẾU VỀ VĂN THÌ GIÚP MÌNH LÀM , KHÔNG CHÉP TRÊN MẠNG, MÌNH SẼ TRẢ CÔNG 50K
3 trả lời
Hỏi chi tiết
19.298
22
11
Portgas ( Gol ) D. ...
21/02/2018 20:49:49
Huy Cận là một nhà thơ gắn liền với phong trào thi ca cách mạng Việt Nam. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau cách mạng tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phầm không thể không kể đến đó là tác phầm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ảm đạm, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữ dòng đời vô định.
Với nhan đề “ Tràng Giang” có nghĩa là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một không gian mênh mông, không bến bờ. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang” trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái mênh mông đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ bao la, mênh mông.
Tiếp đến là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Đứng trước cảnh "trời rộng", "sông dài" lại khiến cho lòng người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Với bốn câu thơ đầu tiên mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ảm đạm. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được không gian mênh mông, bát ngát và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn kết hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vô cùng lớn, cứ nối tiếp nhau mãi không hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một hình ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dòng không biết đi đâu về đâu. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thế mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa.Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngôn từ những hình tượng hết sức gần gữi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không gian mênh mông bao la, và nỗi buồn vô định trong lòng người ẩn chứa trong bức tranh thiên nhiên hung vỹ
Và nỗi lòng đó dần đần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá tìm hiểu
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”
Hai từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa khung cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “đìu hiu”, một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cô độc khiến cho con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Khi nhắc đến khung cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ đến sự nhộn nhịp tấp lập người buôn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa chọn khung cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.
“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”
“Nắng xuống, trời lên” gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ dừng lại ở thiên nhiên xung quanh mà còn gửi lên đến tận trời cao. Hình ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy được không gian bao la của mênh mông, và sự cô đơn lẻ loi của sự vật trước cái cảnh tượng mênh mông đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó còn là cảnh vật của lòng người. Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu.
“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là “hàng nối hàng” chứng tỏ rằng không có một số từ nào có thể miêu tả hết được những số phận cô đơn lạc long trong cuộc sống
“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.”
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "…không…không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Tiếp đến tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu tỏng thi ca cổ điển để diễn tả nỗi lòng
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”
Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Như vậy, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những biện pháp so sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian bao la bát ngàt của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thăm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm an chảy trái tim của người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua các dùng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự bày tỏ lòng mình một cách chân thực đã đem đến cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. Qua đó, nhà thơ Huy Cận còn bày tỏ tình yêu quê hương đất nước con người của chính bản thân ông.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
17
7
Portgas ( Gol ) D. ...
21/02/2018 20:51:11
Tràng giang là một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ “Lửa thiêng”. Nó phản ánh một nỗi buồn mênh mông da diết, một thiên nhiên khoáng đạt nhưng buồn. Đó là nỗi buồn dường như vô cớ siêu hình nhưng trong tận cùng sâu xa thì đây chính là nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn về quê hương đất nước. Hai dòng thơ đầu là một cặp chứa đựng nghệ thuật đối của Đường thi. Trên cái nền mênh mông của sóng nước tràng giang, Huy Cận cho xuất hiện một hình tượng chiếc thuyền nhỏ nhoi điểm nhãn cho bức tranh ấy có thần. “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song”. Câu đầu cho thấy mối quan hệ tác động giữa khách quan và chủ quan. Dòng tràng giang xuất hiện những cơn sóng rất nhẹ, thế nhưng nó có khả năng gợi lên những lớp sóng trong tâm hồn người rất dữ dội. Sóng nước tràng giang tạo nên sóng buồn “điệp điệp” trong lòng người. Tràng giang gợi cho ta vè một con sông dài thế nhưng vần “ang” đã cộng hưởng với nhau tạo ra một tiếng vang. Theo Xuân Diệu thì tràng giang không chỉ là sông dài mà còn là sông rộng, sông sâu. Nó không chỉ là con sông gợi gợi tới Hồng Hà, là con sông tạo cảm hứng cho bài thơ này – hay sông La dòng sông quê hương của tác giả, dòng sông đã thổi vào hồn cho “Tràng giang” – mà nó còn là con sông của thời thế, con sông cuộc đời. Con sông ấy bắt đầu từ một quá khứ mông lung, nó chảy lửng lờ giữa lòng vũ trụ rồi nó trôi đến tương lai cũng hết sức mông lung. Giữa những lớp sóng của nỗi buồn hiu hắt xuất hiện hình tượng một con thuyền thật cô đơn trong buổi chiều tàn. Cũng hình ảnh này, trong thơ Bà Huyện Thanh Quan đã cho bao thế hệ độc giả cảm nhận được dư vị bàng bạc của nỗi buồn: “Gác mái như ông về viễn phố” Còn con thuyền của Huy Cận thì không có bóng ngư ông, cũng không có ai chủ động gác mái chèo và không hề có một bến xa nào chờ đợi nó. Thơ Huy Cận chứa đựng một nỗi buồn trần thế ở bên trong, nên ta có thể hiểu con thuyền ấy là thân phận của con người. Tràng giang ấy chính là dòng đời bạc bẽo, cho nên con thuyền không thể trôi trên nước mà “song song” với nước. Trong thực tế thuyền không “song song” với nước vậy thì không có quan hệ ngược chiều “thuyền về nước lại”. Rõ ràng ở đây con thuyền ấy vẫn lầm lũi trôi về xa và dòng nước “song song” đã không còn đồng hành với thuyền. Nó quay trở lại mặc cho thuyền trôi. Đó là sự ngoảnh mặt quay lưng của cuộc đời với những cá nhân đau khô. Ở cái nơi dứng tình, đoạn tuyệt giữa thuyền và nước xuất hiện những con sóng vô hướng với sầu trăm ngã: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” Như vậy nỗi buồn đã chuyển hóa thành sóng. Buồn “điệp điệp” là một nỗi buồn định hương theo không gian trôi của tràng giang giờ đây đã trở thành cái sầu vô hướng lan tỏa toàn vũ trụ. Câu thơ thứ tư là một sự sáng tạo đọc đáo của Huy Cận. “Củi một cành khô lạc mấy dòng” Hình tượng cành củi khô trên dòng tràng gian gợi cho ta thân phận một kiếp người. Trong quá khứ đây là một cành cây xanh tươi, nó được sống với nhau xanh của lá, với nhựa sống của cây. Ấy vậy trong hiện tại nó đã bị khô héo, đã phải lìa cội gốc để thụ động phiêu bạt mà không hề định hướng được cho mình tương lai. Rõ ràng cành củi khô nhỏ bé trôi trên sóng nước tràng giang thì không thể hứa được điều gì tươi sáng cả. Nếu khổ thơ đầu tiên là những sự vật được nhìn trên sóng nước tràng giang, thì đến khổ thơ thứ hai ta bắt gặp một không gian ba chiều trên con sông dài, sâu, rộng ấy cùng với nỗi buồn thấm thía. Câu thơ thứ nhất cho ta thấy bờ của tràng giang cồn bãi gập ghềnh. Nó không được phẳng lì như bãi cái trên con sông Đuống trong bài thơ Hoàng Cầm: “Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu” Những cồn đất ấy nó đứng im nhưng cảm giác rợn ngợp của con người lại khiến cho nó chuyển động. Cồn nhỏ thì “lơ thơ” còn ngọn gió thì đìu hiu đầy âm khí chết chóc. Gió cứ lận quất, lan thang trong không gian của nghĩa địa ấy khiến lòng người trở nên hoang vắng, rờn rợn. Vì thế mà nhà thơ muốn tìm tới một không gian xa hơn, có bóng dáng của con người hơn. Ông muốn được nghe âm thanh của sự sống dù chỉ là tiếng chợ vãn buổi chiều. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” Huy Cận giải thích: đâu đây có những tiếng thì thào nho nhỏ của một phiên chợ vãn ở làng xa nào đó. Còn Xuân Diệu thì cho rằng chẳng có tiếng chợ vãn nào ở làng xa cả, chỉ có cồn nhỏ và gió “đìu hiu” cũng khát vọng được nghe tiếng người nhưng không có. Hai câu thơ tiếp theo là không gian ba chiều của tràng giang, nó kiểm soát toàn vũ trụ. Trước hết là chiều dọc, nó được nhìn bằng một cái nhìn rất “động”. “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót” Nhà thơ đã rất tinh tế khi quan sát được cái vẻ đẹp thi vị của buổi chiều trên sông nước quê hương. Trời càng về chiều những vạt nắng như được đổ từ trên cao xuống thấp, càng về chiều càng có sự phân biệt sáng tối; dưới đất sẫm màu, trên trời vàng rực nắng. Do đó ánh sáng càng xuốn thì trời càng bị đẩy lên cao. Nhìn vào bầu trời cao vút ta có cảm giác không gian như lộn ngược, ta cứ nghĩ rằng mình đang rơi xuống một cái hang sâu thăm thẳm. Vì thế mà ba tiếng “sâu chót vót” được dùng ở đây rất hay và vô cùng độc đáo. Sau chiều dọc thì chúng ta gặp một chiều ngang, chiều rộng: “Sông dài, trời rộng bến cô liêu” Ở cái hệ tọa độ ba chiều ấy ta thấy xuất hiện một giá trị mong manh, nhỏ nhoi, cô độc là “bến cô liêu”. Tự nó mang ý nghĩa biểu tượng cho một kiếp người đáng thương trong vũ trụ bao la, mênh mông. Đến khổ thơ thứ ba đành phải quay lại với mặt nước tràng giang, vì đâu đâu cũng tràn ngập bầu không khí ảm đảm, đau thương. Giờ đây không chỉ có một con thuyền, một cành củi, một thân phận cá nhân mà là số phận nổi trôi của cả cộng đồng vì không biết sẽ về đâu. “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng” Câu thơ tiếp theo mong ước sẽ có một sự vật đâm ngang, lao vút qua dòng tràng giang để chủ động tìm một giá trị gì đó cho chính mình. Ở đây ước muốn có một chiếc đò ngang chờ người nối hai bờ vui đã đối lập chua chat với hiện thực. Tràng giang đã phủ định tuyệt đối bằng chữ “không” với cái mong ước nhỏ bé ấy. “Mênh mông không một chiếc đò ngang” Câu thơ tiếp theo là một khát vọng đã được giảm thiểu: “Không cầu gợi chút niềm thân mật”. Thôi thì không có chuyến đò ngang ta chỉ cần một chiếc cầu để nối bờ của “cồn nhỏ”, “gió đìu hiu” với bờ có cây xanh và bãi cát vàng. Vậy mà chiếc cầu ấy cũng không hề có thực. Nhà thơ cảm thấy nhận được sự cô đơn lạc loài đang vây bủa. Khát vọng không phải lênh đênh như thuyền với cành củi khô, như cánh bèo dạt trôi; kháy vọng muốn thoát khỏi bờ sông lãnh lẽo, hoang vắng đã khiến cho nhà thơ hướng tới mong muốn hòa nhập vào xã hội để tìm kiếm sự đồng cảm, giao tiếp với con người. Và thật thất vọng biết bao nhiêu với một dấu hiệu nhỏ mong “gợi chút niềm thân mật” với xã hội loài người cũng không có nốt. Không thể thực hiện được điều mình ước muốn, nhà thơ đành ngậm ngùi sống với khát vọng thầm kín bằng nỗi buồn lặng lẽ và đôi mắt mong ngóng: “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” Khác với những hình tượng thơ hiu hắt trên sông nước tràng giang. Câu thơ này xuất hiện một cái nhìn thế giới rất sáng trong. Đó là màu xanh của sự sống, là màu vàng rực rỡ của niềm vui hạnh phúc. Như vậy là ước muốn sang bờ bên kia để hòa nhập với “bờ xanh tiếp bãi vàng” với “niềm thân mật” nhưng không thể thực hiện được nên nhà thơ đành phải ngắm nhìn trong rung rưng, ngậm ngùi. Khổ thơ cuối cùng là một không gian xa tít tắp phía chân trời tràng giang. Đó là một xứ sở của yên bình hạnh phúc. Nơi ấy con người tìm lại được chính mình gắn bó với gốc rễ, quê hương, xứ sở; không phải lênh đênh lạc loài: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” Đây là câu thơ tả cảnh hoàng hôn buôn xuống, mặt trời tỏa ra những tia nắng gay gắt, chói lọi. Phía chân trời tràng gian xuất hiện những nấm mây trắng nhỏ. Chỉ trong chốc lát, lớp mây này đùn lên lớp mây kia. Và rồi không gian ba chiều trống rỗng của tràng giang bị những đám mây khổng lồ chiếm lĩnh toàn bộ. Mặt trời chiếu vào những núi mây ấy khiến cho nó trắng xóa, sáng lòa như những hòn núi được đúc bằng bạc. Câu thơ này thực ra lấy ý từ hai câu nhớ nhà của Đỗ Phủ: “Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm Mặt đất mây đùn, cửa ải xa” Người trí thức Tây học Huy Cận sau bao nhiêu lần vô vọng tìm kiếm nhưng không gian “gợi chút niềm thân mật” đã phát hiện ra được không gian để mình giải tỏa niềm đau là quê hương, là xứ sở Việt Nam. Vì vậy hình tượng cánh chim bay trong hoàng hôn tràng giang không ai khác hơn là hóa thân của chính Huy Cận. “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Cánh chim ấy cũng nho nhoi giữa đất trời vô hạn mênh mông nhưng nó khác củi kia, thuyền nọ là cái thế chủ động. Nó đã cảm nhận được cái sức nặng của hoàng hôn vô vị. Nó nghiêng cánh trút hết những niềm đau, nỗi khổ xuống tràng giang. Lòng của nó nhẹ nhõm để bay về hòn núi bạc. “Lòng quê dợn dợn vời con nước” Câu thơ thứ hai xuất hiện hai tiếng “lòng quê” như vậy nghĩa là đã xuất hiện hình tượng con người. “Lòng quê” thể hiện một tấm lòng hướng về quê hương, về cha mẹ và những người thân yêu. Rõ ràng trở về với cội nguồn để là người Việt Nam chính là giải pháp đúng đắn nhất để giải thoát những nỗi cô đơn, những sóng gió phũ phàng của cuộc đời ở tràng giang: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” Khói sóng là một yếu tố khách quan bên ngoài, nó gợi lên cho Thôi Hiệu một nỗi nhớ nhà: “Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” (Tản Đà dịch) Nhưng đến Huy Cận thì không cần có khói sóng tức là không có sự gợi ý của khách quan mà vẫn nhớ nhà. Như vậy nhờ nhà đã có sẵn trong nhà thơ, bó bộc lộ trực tiếp mà không cần có một sự gợi ý bên ngoài. Thực ra dù không có khói sóng nhưng đọc ba câu thơ trên ta thấy có rất nhiều yếu tố khiến Huy Cận nhớ nhà. Đó là những núi bạc, là cánh chim chiều trút cô đơn để bay về nơi hạnh phúc, là một khối “lòng quê” đang “dợn dợn vời con nước”. Bao nhiêu yếu tố ấy cũng đã đủ sức gợi nhớ quê hương đâu cần gì phải có khói sóng trên sông. “Trang giang” là một trong những bài thơ rất đặc sắc, “rất Huy Cận”. Với những nét bút chấm phá thân tình về tạo vật, tâm sự nhẹ nhàng mà thâm trầm của một tâm hồn trẻ vội sớm già đã có khả năng đối thoại thấm thía với người đọc về vũ trụ trong ngọn lửa thiêng hội tụ lẽ sống nhân sinh mang tính “lương” và chất “thiện”.
18
8
Đức LBA
21/02/2018 21:19:16
toàn là lấy trên mạng, bạn nào đã không biết làm thì thôi để cho người khác làm , thế này thì còn ai vào làm cho mình nữa chứ, đề nghị ad xóa 2 bài trên dùm

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư