Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nửa đầu thế kỉ 19 đã đưa đến thành lập tổ chức

phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở nửa đầu thế kỉ 19 đã đưa đến thành  lập tổ chức 
2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
103
0
0
Trung
24/11/2021 16:54:38
+5đ tặng

Từ sau khi Ph. Ăngghen qua đời (8-1895), kể từ Đại hội lần thứ IV (họp tháng 8-1896 ở Luân Đôn), cơ quan lãnh đạo của Quốc tế thứ hai dần dần rơi vào tay các phần tử cơ hội chủ nghĩa, đứng đầu là E.Bécxtainơ. Họ phủ nhận chuyên chính vô sản, liên minh công nông và tư tưởng về chuyển cách mạng dân chủ tư sản lên cách mạng XHCN, tuyên truyền thuyết ''hòa bình giai cấp'' và thuyết ''chủ nghĩa tư bản hòa bình nhập vào chủ nghĩa xã hội'' v.v... Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, đối lập với những người bônsêvích giữ lập trường chống chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, các phần tử cơ hội chủ nghĩa trong Quốc tế thứ hai đã công khai đứng về phía giai cấp tư sản nước họ, ủng hộ cuộc chiến tranh đế quốc phi nghĩa. Cũng vì thế khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, Quốc tế thứ hai, dưới sự thao túng của các phần tử cơ hội chủ nghĩa, đã không còn đủ uy tín và khả năng lãnh đạo phong trào công nhân quốc tế nữa và bắt đầu bị phân hóa, tan rã.

Ngay từ năm 1914, V. I. Lênin đã nhận thức rõ sự cần thiết phải thành lập một tổ chức quốc tế mới.

Hội nghị Dimmécvan lần thứ nhất (9-1915), Hội nghị Dimmécvan lần thứ hai (4-1916) đã tập hợp những người cách mạng chân chính trong phong trào cộng sản lúc đó, gọi là phái tả Dimmécvan, “đã lên tiếng” chống chiến tranh đế quốc, đòi hòa bình, giành chủ nghĩa xã hội. Đó là mầm mống của Quốc tế thứ ba, mặc dầu các hội nghị Dimmécvan còn có nhiều hạn chế, nhất là không chịu chấp nhận đường lối, chính sách đấu tranh cách mạng triệt để của Lênin và Đảng bônsêvích (biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng, làm thất bại các chính phủ trong cuộc chiến tranh, thành lập Quốc tế mới thay thế Quốc tế thứ hai phản bội). Sau chiến tranh đế quốc (1914 - 1918) và Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, những điều kiện thành lập Quốc tế cộng sản đã chín muồi.

Vì vậy sau khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga thành công, Lênin và Đảng bônsêvích đã tích cực tiến hành tập hợp những lực lượng cách mạng vô sản chân chính, tiến tới thành lập một tổ chức Quốc tế mới của giai cấp vô sản. Tháng 1-1918, hội nghị đại biểu các phái tả trong các Đảng Xã hội - dân chủ đã họp ở Pêtrôgrát. Hội nghị đã nêu rõ sự cần thiết phải triệu tập một Hội nghị quốc tế của các chiến sĩ cách mạng vô sản chân chính trên thế giới, đưa ra những điều kiện tham gia hội nghị này - tán thành con đường đấu tranh chống chính phủ đế quốc nước mình, ủng hộ Cách mạng tháng Mười và nước Nga Xô viết. Tháng 1-1919, ở Mátxcơva hội nghị của các đại biểu 8 đảng mácxít Nga, Ba Lan, Hunggari, Đức, Áo, Látvia, Phần Lan và Liên hiệp cách mạng Bancăng đã họp dưới sự lãnh đạo của Lênin. Hội nghị đã thông qua lời kêu gọi gồm 15 điểm trình bày đường lối cách mạng đúng đắn của phong trào cách mạng vô sản, chỉ rõ vai trò làm tay sai cho giai cấp tư sản thống trị của bọn xã hội - dân chủ phái hữu và phái giữa, và nêu lên sư cấp thiết phải thành lập Quốc tế cộng sản để lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới trong thời kì mới - thời kì cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc.

Tháng 2-1919, Quốc tế thứ hai họp hội nghị ở Bécnơ (Thụy Sĩ), tìm cách ngăn trở Quốc tế thứ ba thành lập. Nhưng âm mưu của họ đã bị thất bại.

Đại hội thành lập Quốc tế cộng sản được khai mạc ở Mátxcơva và họp từ ngày 2 đến 6-3-1919. Tham dự Đại hội có các đại biểu của 19 đảng và nhóm, có quan sát viên 15 nước. Mặc dầu bị cản trở, đông đảo các đảng phương Tây đều có đại biểu và lần đầu tiên có các đại biểu của các đảng phương Đông. Các đại biểu của các chính đảng lớn ở phương Tây và phương Đông đều có mặt: Nga, Đức, Áo Hunggari, Ba Lan, Phần Lan, Pháp, Bungari, Mĩ, Trung Quốc, Triều Tiên. Sự có mặt của các đại biểu các nước phương Đông tuy không nhiều nhưng đã chứng tỏ Quốc tế thứ ba chẳng những chỉ là tổ chức của giai cấp công nhân các nước tư bản chủ nghĩa mà còn là tổ chức của quần chúng công nhân và nhân dân lao động các nước thuộc địa và phụ thuộc.

Vấn đề tổ chức Quốc tế thứ ba được thảo luận trước tiên. Lênin đã kiên trì đòi hỏi phải thành lập ngay Quốc tế Cộng sản. Tất cả các đại biểu đều tán thành việc thành lập Quốc tế mới, trừ các đại biểu Đảng Cộng sản Đức. Ngày 4-3-1919, Đại hội tự tuyên bố làĐại hội lần thứ nhấtcủa Quốc tế Cộng sản, Quốc tế thứ ba.

Đại hội đã thảo luận và thông qua Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản được xây dựng theo những nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin do Lênin trình bày. Mở đầu, cương lĩnh vạch rõ thời đại mới đã bắt đầu: “Thời đại mới nảy sinh, thời đại tan rã của chủ nghĩa tư bản, của sự suy sụp bên trong của nó, thời đại cách mạng của giai cấp vô sản''.

Cương lĩnh cũng đã vạch ra đường lối cách mạng triệt để và khoa học của phong trào cách mạng là lật đổ chính quyền tư sản, giành chính quyền vô sản, thiết lập chuyên chính vô sản với sự giúp đỡ của nước Nga Xô viết, tước đoạt tài sản của giai cấp tư sản, xã hội hóa sản xuất và chuyển sang xã hội cộng sản không giai cấp.

Trong Tuyên ngôn gửi những người vô sản toàn thế giới, Đại hội đã kêu gọi giai cấp vô sản quốc tế đấu tranh quyết liệt để thực hiện chuyên chính vô sản. Tuyên ngôn nhấn mạnh: “Nếu như Quốc tế thứ nhất nhìn thấy trước sự phát triển tương lai và phác ra đường đi của nó, nếu như Quốc tế thứ hai đã tập hợp và tổ chức hàng triệu người vô sản lại, thì Quốc tế thứ ba là Quốc tế hành động quần chúng công khai, là Quốc tế thực hiện cách mạng, là Quốc tế việc làm”.

Báo cáo ''Luận cương và báo cáo về chế độ tư sản dân chủ và chuyên chính vô sản của Lênin là báo cáo cực kì quan trọng trong chương trình nghị sự của Đại hội. Lênin đã nhấn mạnh sự cần thiết của chuyên chính vô sản nhằm đè bẹp sự phản kháng của giai cấp bị lật đổ và xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Người đã vạch trần luận điệu giả dối của bọn lãnh tụ Quốc tế thứ hai nấp dưới chiêu bài bảo vệ nền ''dân chủ thuấn túy'' hay ''dân chủ nói chung'', để hòng duy trì nền dân chủ tư sản và hò hét chống lại chuyên chính vô sản dưới danh nghĩa chống lại “chuyên chính nói chung”.

Đai hội đã bầu ra một Ban Chấp hành Trung ương của Quốc tế cộng sản.

Trong bài ''Quốc tế thứ ba và địa vị của nó trong lịch sử” viết vào tháng 4-1919, Lênin đã vạch rõ Quốc tế Cộng sản là người thừa kế và người kế tục sự nghiệp của Quốc tế thứ nhất: ''Ý nghĩa lịch sử của Quốc tế thứ ba đối với toàn thế giới là đã bắt đầu đem thực hiện cái khẩu hiệu vĩ đại nhất của Mác, khẩu hiệu tóm tắt cả một thế kỉ tiến bộ của chủ nghĩa xã hội và của phong trào công nhân, tức là khẩu hiệu quy định bởi khái niệm: chuyên chính vô sản.

2. Những hoạt động của Quốc tế Cộng sản từ 1919 đến 1943

Sau đại hội thành lập Quốc tế Cộng sản, phong trào cộng sản thế giới đã có bước tiến to lớn. Ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản đối với những công nhân theo bọn xã hội trong nhiều nước châu Âu cũng được tăng cường. Quá trình hình thành về mặt tổ chức của các Đảng Cộng sản trong một số nước cũng xúc tiến thêm. Các tổ chức cộng sản thanh niên lần lượt xuất hiện dẫn đến sự thành lập Quốc tế Cộng sản thanh niên.

Lênin đã kêu gọi đấu tranh không khoan nhượng với những người cơ hội đang âm mưu chui vào hàng ngũ các tổ chức cộng sản quốc tế. Ngoài ra, các quan điểm biệt phái tả khuynh đang có nguy cơ lan rộng trong phong trào cộng sản quốc tế cũng gây trở ngại cho những người công sản trong việc tranh giành ảnh hưởng đối với quần chúng. Những người cộng sản “tả khuynh” phủ nhận việc tham gia vào các nghị viện tư sản, phong tỏa cô lập các công đoàn do những người cải lương lãnh đạo, cự tuyệt mọi sự thỏa hiệp với những người xã hội - dân chủ trong việc phối hợp hành động chống lại thế lực phản động. Như Lênin đã nói, những quan điểm bè phái ''tả khuynh'' mang lại những tai hại to lớn cho phong trào cộng sản.

Những bài học của các cuộc đấu tranh giai cấp 1914 - 1920, sự thất bại của nước Hunggari Xô viết đã chỉ ra rằng giai cấp vô sản không thể củng cố được thắng lợi nếu không có một chính Đảng Cộng sản đoàn kết, có kỉ luật và kinh nghiệm. Cần phải tìm kiếm các con đường và phương thức để thu hút về phía những người cộng sản đa số công nhân và quần chúng không vô sản khác. Trước các Đảng Cộng sản non trẻ, nhiệm vụ đặt ra là phải học được sự mềm dẻo linh hoạt trong việc đưa quần chúng tới cách mạng.

Tháng 4-1920, Lênin viết tác phẩm nổi tiếng - Bệnh ấu trĩ ''tả khuynh'' trong phong trào cộng sản, là sự chuẩn bị về tư tưởng cho các công việc của Đại hội lần thứ hai của Quốc tế Cộng sản. Tác phẩm đó được công bố bằng tiếng Anh, Nga, tiếng Pháp ngay trước khi khai mạc đại hội và được phân phát đến tay các đại biểu Đại hội II khai mạc 10-7-1920 tại Pêtrôgrát và Mátxcơva và sự tham gia của đại biểu các Đảng Cộng sản và tổ chức phái tả từ 37 nước.

Một bộ phận lớn các nhà cách mạng đến từ các nước thuộc địa, phụ thuộc: Ấn Độ, Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì…Công việc trung tâm của Đại hội là bàn về vấn đề thành lập và củng cố các Đảng Cộng sản trong các nước, đồng thời thu hút và tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng.

Đại hội đã thảo luận và thông qua báo cáo quan trọng của Lênin:'"Về tình hình thế giới và về những nhiệm vụ cơ bản của Quốc tế Cộng sản''. Báo cáo này trở thành cơ sở có tính nguyên tắc cho tất cả các nghị quyết của Đại hội. Trên cơ sở đó, Đại hội đã thông qua bản luận cương về những nhiệm vụ căn bản của Đại hội II Quốc tế Cộng sản. Đại hội II cũng thảo luận và thông qua 21 điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản, vạch ra những nguyên tắc chính trị và tổ chức của Quốc tế thứ ba nhằm bảo đảm sự đoàn kết nhất trí, ngăn ngừa không để cho những phần tử cơ hội hữu khuynh, trước hết là những phần tử phái giữa, lén lút chui vào Quốc tế Cộng sản.

Một vấn đề quan trọng khác được thảo luận tại Đại hội II là vấn đề dân tộc thuộc địa. Báo cáo của Lênin - Sơ thảo đề cương về các vấn đề dân tộc thuộc địa là một đóng góp quan trọng vào học thuyết Mác - Lênin và vạch ra con đường đấu tranh cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, cũng như chỉ ra sự phối hợp hành động giữa phong trào công nhân quốc tế và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Khẩu hiệu của C.Mác: ''Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại !'' đã được Lênin phát triển thành: ''Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!''. Đó là bước ngoặt to lớn trong nghệ thuật lãnh đạo chính trị của những người cộng sản, làm cho Quốc tế Cộng sản trở thành người lãnh đạo, lãnh tụ của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức toàn thế giới.

Đại hội cũng thông qua điều lệ của Quốc tế Cộng sản, trong đó nguyên tắc tập trung dân chủ là cơ sở của tổ chức. Đại hội II là một trong những đại hội quan trọng nhất của Quốc tế Cộng sản, nó hoàn thành công việc thành lập Quốc tế thứ ba - Quốc tế Cộng sản. Đại hội đã ''tạo ra một thứ kỉ luật và một sự đoàn kết chưa từng thấy trong các Đảng Cộng sản trên toàn thế giới” (Lênin).

Các nghị quyết của Đại hội đã củng cố các Đảng Cộng sản trẻ tuổi, chuẩn bị cơ sở cho sự thành lập các Đảng Cộng sản ở các nước khác và thu hút họ tham gia Quốc tế Cộng sản.

Tiếp theo Đại hội II, tháng 12-1920, Đại hội của các Đảng Cộng sản phương Đông đã họp ở Bacu (Aidécbaigian) để bàn về tương lai của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Đại hội đã thông qua nhiều nghị quyết quan trọng tán thành đường lối chính trị của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa và đã nêu cao tinh thần đoàn kết anh em của các dân tộc phương Đông với giai cấp vô sản phương Tây.

Năm 1921, trường Đại học lao động phương Đông được thành lập ở Mátxcơva nhằm đào tạo, bồi dưỡng lí luận cho cán bộ các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc.

Trong các năm từ 1921 đến 1923, các Đảng Cộng sản tiếp tục được thành lập. Năm 1921, có Đảng Cộng sản ltalia, Tiệp Khắc, Trung Quốc, Nam Phi. Năm 1922, có các Đảng Cộng sản Chilê, Braxin, Nhật Bản. Từ những năm 1920 - 1921, phong trào cách mạng trong các nước tư bản bắt đầu đi xuống. Hoàn cảnh thay đổi, bọn tư sản phản động chuyển sang khủng bố trắng các đảng viên cộng sản và phong trào quần chúng. Quốc tế Cộng sản kêu gọi những đảng viên cộng sản đi vào quần chúng và thành lập Mặt trận công nhân thống nhất. Mặc dù cao trào cách mạng 1918 – 1923 không thành công, nhưng uy tín của Quốc tế Cộng sản không ngừng được tăng cường. Năm 1918, mới chỉ có 10 Đảng Cộng sản, năm 1921 tăng lên 48 đảng.

Đại hội III của Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 22-6 đến 12-7-1921, tại Mátxcơva. Đại hội nhận định rằng giai cấp vô sản đã tạm thời thất bại trong những cuộc đấu tranh giai cấp vừa qua. Nguyên nhân chính là do chính sách chia rẽ, phá hoại của các lãnh tụ Đảng Xã hội - dân chủ.

Đại hội IV của Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 5-11 đến ngày 5-12-1922, đúng vào dịp kỉ niệm 5 năm Cách mạng tháng Mười Nga. 408 đại biểu từ 58 nước đã tham dự, đại diện cho gần 2 triệu đảng viên. Đại hội đã vạch ra nguy cơ sự tấn công của chủ nghĩa phát xít và đề ra khẩu hiệu thành lập mặt trận thống nhất trong các nước thuộc địa, phụ thuộc và phong trào công nhân chính quốc. Lênin đọc báo cáo: ''Năm năm cách mạng Nga và những triển vọng của cách mạng thế giới'', nêu rõ ý nghĩa quốc tế của chính sách kinh tế mới ở nước Nga.

Quốc tế Cộng sản rất coi trọng việc xây dựng các tổ chức quần chúng: Quốc tế thanh niên (1919), Quốc tế phụ nữ (1920), Quốc tế công đoàn đỏ (1921), Quốc tế nông dân (1923), v.v… Nguyễn Ái Quốc đã tham gia Đại hội thành lập Quốc tế nông dân với tư cách là đại biểu của nông dân các nước thuộc địa và được bầu vào Ban chấp hành Quốc tế nông dân. Các tổ chức quần chúng này đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Quốc tế Cộng sản trong đông đảo quần chúng.

Đại hội V Quốc tế Cộng sản họp từ ngày 17-6 đến 8-7-1924 tại Mátxcơva với sự tham gia của 510 đại biểu của 46 Đảng Cộng sản, 4 đảng cánh tả và l0 tổ chức quần chúng. Đây là Đại hội đầu tiên vắng Lênin, song những luận điểm của Người về vấn đề “liên minh công nông”, về vấn đề dân tộc và thuộc địa, về chuyên chính vô sản ... đã nói lên sự đóng góp lí luận to lớn về nhiều mặt của Lênin vào kho tàng lí luận của chủ nghĩa Mác.

Nhiệm vụ chủ yếu của Đại hội V là "bônsêvích hóa'' các Đảng Cộng sản. Sự phát triển tiếp tục của phong trào công nhân quốc tế phụ thuộc vào khả năng của Đảng Cộng sản trở thành một tổ chức vững mạnh về tư tưởng, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của Đảng Bônsêvích. ''Bônsêvích hóa'' các Đảng Cộng sản có nghĩa là sử dụng kinh nghiệm Nga trên cơ sở tính toán hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước. Các Đảng Cộng sản không được khoan nhượng với những kẻ thù của chủ nghĩa Mác - Lênin, “tả khuynh” cũng như ''hữu khuynh'', không để cho bọn cơ hội chui vào hàng ngũ của mình. Để tạo được mối liên hệ với quần chúng, những người cộng sản phải biết hoạt động trong những điều kiện hợp pháp cũng như bất hợp pháp, kết hợp cuộc đấu tranh giành chuyên chính vô sản với cuộc đấu tranh cho những đòi hỏi của cuộc sống hàng ngày của công nhân và nhân dân lao động.

Để biến các Đảng Cộng sản thành các đảng kiểu mới, cần phải cải tổ về tổ chức trên cơ sở các tổ chức đảng tại các xí nghiệp, đòi hỏi sự tham gia một cách có hệ thống của những người cộng sản trong phong trào công đoàn, triển khai cuộc đấu tranh cách mạng ở nông thôn, giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc.

Đại hội V tiếp tục thảo luận về vấn đề dân tộc, thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc đọc bản tham luận quan trọng. Người vạch trần chính sách áp bức dân tộc thuộc địa của bọn đế quốc thực dân, tình cảnh đói khổ của nhân dân bản xứ và kêu gọi các đảng vô sản chính quốc lưu ý tới vấn đề dân tộc thuộc địa như giáo huấn của Lênin.

Đại hội VI của Quốc tế Cộng sản, họp từ ngày 17-7 đến 11-9-1928, tại Mátxcơva với sự tham gia của 532 đại biểu thay mặt cho 55 Đảng Cộng sản và l0 tổ chức quần chúng từ 57 nước. Đại hội xác định nhiệm vụ chính của phong trào cộng sản quốc tế trong giai đoạn trước mắt là đấu tranh chống nguy cơ chiến tranh đế quốc đang đến gần. Nghị quyết về nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới mới vạch rõ mục tiêu chính trong âm mưu gây chiến lần này của chủ nghĩa đế quốc là can thiệp, chia cắt Trung Quốc và tiêu diệt Liên Xô, vì vậy Đại hội kêu gọi giai cấp vô sản thế giới phải bảo vệ Liên Xô và Trung Quốc trong trường hợp bị tấn công.

Đại hội VI cũng thông qua đề cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, phụ thuộc, khẳng định lại giá trị của đề cương về dân tộc thuộc địa của Lênin tại Đại hội lần II. Từ sau Đại hội VI và được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1929, các nước tư bản lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ chưa từng thấy. Làn sóng đấu tranh của giai cấp công nhân đã phát triển mạnh mẽ. Phong trào giải phóng dân tộc cũng lên cao ở Đông Bắc Á, Đông Dương và Nam Á. Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (từ tháng 10-1930, đổi tên là Đảng Cộng sản Đông Dương), nhanh chóng trở thành một chi bộ của Quốc tế Cộng sản (4-1931), mở ra kỉ nguyên hòa nhập cách mạng Việt Nam vào dòng thác cách mạng thế giới .

Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản đã họp ở Mátxcơva, từ ngày 25-7 đến ngày 25-8-1935, trong hoàn cảnh cuộc tấn công của chủ nghĩa phát xít trong phạm vi từng nước và trên thế giới đang mở rộng, phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân chống nguy cơ phát xít và chiến tranh đang diễn ra sôi nổi. Ý muốn thống nhất hành động của nhân dân lao động là tăng cường mạnh mẽ sức mạnh to lớn của mình trong công cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và mọi thế lực phản động khác đã thể hiện rõ rệt. Đại hội có 510 đại biểu (371 đại biểu có quyền biểu quyết) của 65 nước trong số 76 chi bộ các nước. Thay mặt cho 3.141.000 đảng viên cộng sản, trong đó 785.000 người thuộc các Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa.

Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm phong phú của phong trào cách mạng thế giới từ sau Đại hội lần thứ VI và của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Mọi hoạt động của Đại hội đều xoay quanh việc xây dựng cương lĩnh quốc gia và quốc tế để ngăn chặn nguy cơ chủ nghĩa phát xít đang đe dọa tự do và an ninh của toàn thể loài người, việc bảo vệ Liên Xô thành trì của cách mạng và hòa bình thế giới, chống âm mưu xâm lược của bọn tư bản lũng đoạn phản động quốc tế. Do đó, Đại hội lần thứ VII năm 1935 của Quốc tế cộng sản đã được ghi vào sách sử là Đại hội thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, là Đại hội đấu tranh cho mặt trận công nhân thống nhất và cho mặt trận nhân dân chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương tham dự Đại hội đã đọc tham luận về các vấn đề quan trọng nêu ra trong Đại hội .

G. Đimitơrốp đã đọc bản báo cáo chính của Đại hội – “Sự tấn công của chủ nghĩa phát xít và những nhiệm vụ của Quốc tế Cộng sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít”.

Bản báo cáo đã mở đầu bằng việc vạch rõ bản chất giai cấp của chủ nghĩa phát xít. Đimitơrốp đã phê phán nhận định sai lầm và nguy hại của Đảng Xã hội - dân chủ cho rằng chủ nghĩa phát xít là sự vùng dậy của tiểu tư sản, đã phân tích tính chất giai cấp của chủ nghĩa phát xít và đã nhắc lại định nghĩa nổi tiếng của Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành mở rộng lần thứ XIII của Quốc tế Cộng sản nhận định rằng ''Chủ nghĩa phát xít nắm chính quyền là nền chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sôvanh nhất, đế quốc chủ nghĩa nhất của tư bản tài chính”.

Báo cáo cũng vạch rõ nguyên nhân lên nắm chính quyền của chủ nghĩa phát xít. Theo Đimitơrốp: ''Chủ nghĩa phát xít sở dĩ đã có thể lên cầm quyền được trước hết là vì các lãnh tụ xã hội - dân chủ đã thi hành chính sách hợp tác giai cấp với giai cấp tư sản, vì giai cấp công nhân đã bị chia rẽ, bị tước mất vũ khí chính trị và tổ chức trước sự tấn công của giai cấp tư sản. Còn các Đảng Cộng sản thì chưa thật mạnh để không cần có các Đảng Xã hội - dân chủ và đấu tranh chống lại Đảng Xã hội - dân chủ, phát động quần chúng và hướng dẫn họ tham gia cuộc chiến đấu kiên quyết chống chủ nghĩa phát xít''.

Đimitơrốp nhấn mạnh chủ nghĩa phát xít Đức là chủ nghĩa phản động nhất, ''là đội xung kích của bọn phản cách mạng quốc tế, là kẻ chủ yếu gây ra cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa, là kẻ âm mưu tổ chức cuộc hành quân chữ thập chống Liên Xô - Tổ quốc vĩ đại của nhân dân lao động trên thế giới''… Báo cáo vạch tiếp việc bọn phát xít lên cầm quyền không phải là sự thay đổi thông thường chính phủ tư sản này bằng một chính phủ tư sản khác, mà là sự thay đổi hình thức thống trị nhà nước của giai cấp tư sản - hình thức thống trị khủng bố công khai thay thế cho nền dân chủ đại nghị. Kết luận quan trọng đó đã chấm dứt sự đồng nhất đầy tác hại các hình thức khác nhau của chế độ đại nghị tư sản với chủ nghĩa phát xít đã nêu ra cơ sở khoa học để hiểu rõ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa phát xít và nền dân chủ tư sản. Thật vậy, chủ nghĩa phát xít là bước lùi to lớn so với nền dân chủ tư sản, là con đẻ của chủ nghĩa tư bản thối nát. Đại hội vạch rõ rằng cuộc tấn công của chủ nghĩa phát xít và bọn đế quốc phản động đã làm thay đổi sâu sắc tình hình so sánh lực lượng giai cấp trên thế giới, và nêu rõ nhiệm vụ hàng đầu chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ dân chủ chung của phong trào công nhân các nước tư bản chủ nghĩa.

Những mâu thuẫn sâu sắc giữa chủ nghĩa phát xít và nền dân chủ chứng tỏ rằng chủ nghĩa phát xít không những đối lập với Liên Xô và giai cấp công nhân cách mạng, không những đối lập với những người lao động giác ngộ là những người bảo vệ chủ nghĩa xã hội, mà còn đối lập với tất cả những ai đấu tranh cho dân chủ và hòa bình, chống bạo lực dã man và chiến tranh đế quốc, đó là cơ sở giai cấp và xã hội của sách lược mới của những người cộng sản.

Đại hội đã thông qua nghị quyết, trong đó nêu bật rằng mặt trận thống nhất rộng rãi đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh phải được xây dựng trên phạm vi thế giới; tỏ rõ sự ủng hộ những cố gắng của chính phủ Liên Xô nhằm thành lập Mặt trận hòa bình và dân chủ rộng rãi trên toàn thế giới chống lại liên minh chiến tranh của bè lũ phát xít.

Đại hội đã nhấn mạnh: không được đánh giá thấp nguy cơ của chủ nghĩa phát xít, đồng thời cũng kiên quyết bác bỏ quan điểm sai lầm có tính chất định mệnh nói rằng sự thắng lợi của chủ nghĩa phát xít là điều không tránh khỏi. Đại hội đã chỉ rõ rằng điều kiện cần thiết chủ yếu để đấu tranh thắng lợi chống chủ nghĩa phát xít là việc thực hiện sự thống nhất lực lượng của giai cấp công nhân trong từng nước và trên toàn thế giới. Hàng triệu công nhân và người lao động các nước tư bản chủ nghĩa đang đặt vấn đề là làm thế nào để ngăn chặn chủ nghĩa phát xít lên nắm chính quyền và làm thế nào để lật đổ được chủ nghĩa phát xít đã cầm quyền? Quốc tế cộng sản trả lời: ''Điều trước tiên cần phải làm và cần phải bắt đầu từ điều đó là thực hiện mặt trận thống nhất, thiết lập sự thống nhất hành động của những người công nhân trong mỗi xí nghiệp, trong mỗi khu, trong mỗi vùng, trong mỗi nước trên thế giới. Sự thống nhất hành động của giai cấp vô sản trên phạm vi toàn quốc và quốc tế đó là vũ khí hùng mạnh khiến cho giai cấp công nhân không những có thể tự bảo vệ một cách thắng lợi mà còn có thể chuyển qua phản công một cách thắng lợi chống chủ nghĩa phát xít, chống kẻ thù giai cấp''. Đimitơrốp đã phê phán chính sách thỏa hiệp với giai cấp tư sản của những người cầm đầu của Đảng Xã hội - dân chủ làm cho lực lượng của giai cấp công nhân bị chia rẽ, đồng thời cũng chỉ rõ rằng chủ nghĩa biệt phái là sự ngăn trở nghiêm trọng đối với việc khắc phục tình trạng chia rẽ trong hàng ngũ giai cấp công nhân. Đại hội kêu gọi ''tất cả các Đảng Cộng sản hãy tích cực đấu tranh để lập mặt trận thống nhất của tất cả những bộ phận trong giai cấp công nhân, không kể họ thuộc về đảng nào hoặc tổ chức nào, là điều cần thiết trước khi đa số giai cấp công nhân đoàn kết nhau lại trong cuộc tấn công để lật đổ chủ nghĩa tư bản và giành thắng lợi cho cuộc cách mạng vô sản. Quốc tế cộng sản không đặt một điều kiện nào cho sự thống nhất hành động, trừ một điều kiện cơ bản mà tất cả mọi công nhân đều có thể chấp nhận được - đó là sự thống nhất hành động phải nhằm chống chủ nghĩa phát xít, chống sự tấn công của tư bản, chống sự đe dọa của chiến tranh, chống kẻ thù giai cấp. Đó là điều kiện của chúng ta''.

Đại hội đã đề ra chính sách liên hợp mọi tổ chức của giai cấp công nhân: công đoàn, Đảng, tổ chức thanh niên và các giai cấp khác. Nghị quyết của Đại hội đã đề ra khẩu hiệu: “… Một công đoàn cho mỗi ngành sản xuất, một liên hiệp công đoàn cho mỗi nước, một liên hiệp công đoàn thế giới cho mỗi ngành sản xuất, một quốc tế công đoàn trên cơ sở đấu tranh giai cấp”, “ở đâu mà các công đoàn thuộc liên minh quốc tế các công đoàn đó còn là thiểu số thì nó phải gia nhập vào các công đoàn khác; ở đâu mà nó là đa số, thì nó phải tiến hành đàm phán về việc thống nhất trên cơ sở bình đẳng. Nhiệm vụ của những người cộng sản là tiến hành cuộc đấu tranh nhằm thống nhất các công đoàn trên lập trường đấu tranh để chống lại cuộc tấn công của tư bản và bảo đảm nền dân chủ công đoàn''.

Một thắng lợi to lớn của Quốc tế Cộng sản là sau Đại hội lần thứ VII, trong các nước bắt đầu diễn ra việc tập hợp đông đảo quần chúng lao động trong những tổ chức công đoàn rộng lớn nhằm vào mục tiêu cấp bách trước mắt: chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh, bảo vệ những quyền lợi kinh tế, chính trị thiết thân của giai cấp công nhân. Ở Pháp, Tây Ban Nha và nhiều nước khác, các công đoàn lớn mạnh thuộc liên minh quốc tế các Công đoàn đỏ đã hợp nhất với các công đoàn thuộc các xu hướng khác trên cơ sở bình đẳng.

Đối với  việc thống nhất Đảng, Đại hội đã đề ra 5 điều kiện chung cho việc thống nhất tổ chức ấy:

Thứ nhất , có một sư độc lập hoàn toàn đối với giai cấp tư sản và một sự đoạn tuyệt hoàn toàn của khối xã hội - dân chủ đối với giai cấp tư sản.

Thứ hai, là phải thực hiên thống nhất hành động.

Thứ ba, thừa nhận sự cần thiết phải dùng cách mạng đểlật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản và thiết lập chính quyền Xô viết.

Thứ tư, từ chối không ủng hộ giai cấp tư sản trong cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa.

Thứ năm, phải xây dựng Đảng trên cơ sở chế độ tập trung dân chủ, đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động; những điều này đã được chứng thực bằng kinh nghiệm của những người bônsêvích Nga”.

Trọng tâm chú ý của Đại hội là vấn đề Mặt trận nhân dân.

Đại hội vạch rõ Mặt trận nhân dân chống phát xít phải được xây dựng trên cơ sở Mặt trận thống nhất công nhân và hai quá trình thành lập Mặt trận thống nhất công nhân và Mặt trận nhân dân chống phát xít phải được tiến hành song song.

Trong báo cáo, Đimitơrốp nhấn mạnh rằng cương lĩnh của Mặt trận nhân dân phải bao gồm những yêu sách thể hiện những lợi ích cơ bản của giai cấp vô sản, giai cấp nông dân, thợ thủ công và tri thức, kể cả những yêu sách về việc giải tán những tổ chức phát xít và các tổ chức phản động, khôi phục các quyền tự do dân chủ, đấu tranh bảo vệ hòa bình.

Đại hội vạch rõ phong trào đấu tranh mạnh mẽ của đông đảo nhân dân lao động dẫn đến triển vọng thành lập Chính phủ của Mặt trận nhân dân, được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân rộng rãi – công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thủ công và những phấn tử dân chủ. Chính phủ của Mặt trận nhân dân xuất hiện trước và không phải sau khi chủ nghĩa tư bản bị tiêu diệt, nó hoạt động dựa vào cương lĩnh chống tư bản lũng đoạn, chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh, gồm có các điểm chủ yếu như sau: quốc hữu hóa ngân hàng và các ngành công nghiệp chủ yếu; chia ruộng đất của bọn chiếm hữu lớn về ruộng đất; thực hiện bước đầu việc kế hoạch hóa trong nền kinh tế; loại trừ những phần tử phản động ra khỏi các cơ quan nhà nước, quân đội, kinh tế, giáo dục; cải thiện đời sống của nhân dân lao động.

Đại hội kêu gọi các Đảng Cộng sản phải lãnh đạo phong trào đấu tranh giành quyền lãnh đạo Mặt trận nhân dân, phải đảm bảo thực hiện liên minh công nông và phải đấu tranh đòi chính phủ của Mặt trận nhân dân kiên trì thi hành chính sách thiên tả, hướng đến nguyện vọng và lợi ích của đông đảo nhân dân lao động.

Đại hội chỉ rõ Mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan trọng đặc biệt trong tất cả các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Đimitơrốp nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu của các Đảng Cộng sản trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là đấu tranh xây dựng một mặt trận rộng rãi, bao gồm lực lượng chống đế quốc phát xít và bọn phong kiến tay sai, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Sự thống nhất hành động giữa Mặt trận nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa và Mặt trận chống đế quốc trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa là điều cần thiết và phải nhằm mục tiêu lật đổ bọn tư bản tài chính, thủ tiêu chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hòa bình.

Trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai, các Đảng Cộng sản đã có những cán bộ lãnh đạo có kinh nghiệm, có khả năng độc lập giải quyết những vấn đề của phong trào công nhân, những nhiệm vụ dân tộc đặt ra trong mỗi nước. Trong điều kiện chiến tranh, sự liên lạc giữa các Đảng Cộng sản hết sức khó khăn, việc duy trì một cơ quan chỉ đạo cách mạng chung trên toàn thế giới là điều khó có thể thực hiện được. Mặt khác, giới cầm quyền trong nhiều nước tư bản lợi dụng Quốc tế Cộng sản như một nhân tố cản trở quá trình thành lập Mặt trận đồng minh chống phát xít trong chiến tranh. Trong hoàn cảnh đó, sự tiếp tục tồn tại và hoạt động của Quốc tế Cộng sản là không còn phù hợp nữa. Tháng 5-1943, Ban chấp hành Quốc tế cộng sản đã ra nghị quyết giải tán Quốc tế Cộng sản.

II. Một số phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa tiêu biểu sau Cách mạng tháng Mười Nga

Tháng 10-1918, đế quốc Áo - Hunggari tan vỡ và nhiều Xô viết đã xuất hiện ở hai nước Áo và Hunggari. Nhưng ở Áo thì Xô viết không chuyển thành cơ quan khởi nghĩa vì Đảng Cộng sản tuy đã được thành lập, nhưng lúc đó còn non yếu về lí luận cũng như về tổ chức. Do đó, Đảng Xã hội – dân chủ đã thành lập được nền cộng hòa tư sản. Còn ở Hunggari, phong trào cách mạng lên cao hơn nhiều và từ cách mạng dân chủ tư sản chuyển biến nhanh chóng sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Cách mạng dân chủ tư sản bùng nổ vào cuối tháng 10-1918. Công nhân và công nhân nông nghiệp là quân chủ lực của cuộc cách mạng dân chủ tư sản Hunggari. Ngày 28-10, Xô viết binh lính thành lập. Ngày 31-10, Xô viết công nhân ra đời. Công nhân Buđapét khởi nghĩa chiếm xưởng đúc vũ khí, chiếm giữ nhiều cơ quan nhà nước. Binh lính không tuân lệnh chính quyền phong kiến. Nông dân nhiều nơi vùng dậy giành lấy ruộng đất trong tay địa chủ.

Ngày 31-10, chính phủ do Bá tước Carôli cầm đầu được thành lập, hòng duy trì chế độ quân chủ. Chính phủ này đề ra một số chính sách mị dân – bầu cử phổ thông, quốc hữu hóa ngân hàng và đại công nghiệp, “cải cách ruộng đất” - hòng xoa dịu phong trào đấu tranh của công nông. Bọn xã hội – dân chủ phái hữu tham gia chính phủ Carôli là Carami và Cunphi đã vội vã tuyên thệ trung thành với nhà vua. Những hành động đó bị quần chúng phản đối kịch liệt. Ngày 10-11-1918, nước Cộng hòa Hunggari được thành lập.

Nhưng chính quyền tư sản, có bọn xã hội - dân chủ phái hữu tham gia, đã gia sức chặn đứng cuộc đấu tranh giai cấp và không chịu thực hiện những lời hứa hẹn đã nêu ra. Những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng vẫn hoàn toàn không được giải quyết, như tự do, hòa bình, bánh mì và ruộng đất.

Ngày 21-11-1918, Đảng Cộng sản Hunggari được thành lập, bao gồm những người xã hội - dân chủ phái “tả” và những tù binh cách mạng Hunggari từ nước Nga Xô viết trở về, trong đó có Bêlacun, Tibo Xamuêli, Mati át Racôsi…

Ngày 22-2-1919, Chính phủ tư sản bắt giam Bêlacun và nhiều lãnh tụ khác của Đảng Cộng sản, nhằm đe dọa quần chúng cách mạng. Nhưng phong trào cách mạng của công nhân nhằm thiết lập chính quyền Xô viết, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Hunggari, tiếp tục phát triển.

Ở Hunggari, vào tháng 3-1919, diễn ra cuộc khủng khoảng chính trị nghiêm trọng. Mâu thuẫn giai cấp ở trong nước ngày càng trầm trọng do những yêu sách cơ bản cấp bách của công nông không được chính phủ tư sản Carôli giải quyết. Ngày 20-3-1919, Hội đồng tối cao Đồng minh (tức các nước phe Hiệp ước) gửi cho chính phủ Hunggari một công hàm có tính chất tối hậu thư đòi cắt 2/3 lãnh thổ Hunggari cho Rumani, Nam Tư và Tiệp Khắc. Trước nguy cơ diệt vong đó, Chính phủ tư sản từ chức và tính toán dùng bọn xã hội - dân chủ nắm chính quyền. Nhưng Đảng Xã hội – dân chủ cũng không dám một mình cầm quyền và đã phải đàm phán với các lãnh tụ cộng sản Hunggari đang bị giam giữ. Khi ấy, công nhân ở thủ đô Buđapét đã khởi nghĩa chiếm hết các địa điểm xung yếu. Ngày 21-3-1919, Hội đồng các Xô viết công nhân binh lính tuyên bố thành lập chính phủ Xô viết Hunggari gồm những người cộng sản và những người xã hội - dân chủ lúc đó đã hợp nhất thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Hunggari. Như vậy là nước Cộng hòa Xô viết Hunggari đã giành được thắng lợi trải qua cuộc cách mạng bạo lực, chủ yếu là bằng đấu tranh chính trị của quần chúng công nhân nhằm lật đổ chính quyền tư sản phản động.

Chính quyền Xô viết đã tiến hành những công việc to lớn, như quốc hữu hóa công nghiệp, ngân hàng, vận tải, nâng cao tiền lương 25% thi hành chế độ ngày làm việc 8 giờ v.v…Hồng quân được thành lập để bảo vệ chính quyền công nông. Tháng 6-1919 đã diễn ra Đại hội các Xô viết toàn Hunggari, trong đó đã thông qua hiến pháp của nước Cộng hòa Xô viết Hunggari.

Nhưng chính quyền Xô viết Hunggari cũng phạm phải nhiều sai lầm nghiêm trọng, nhất là hai thiếu sót sau đây: - Sự hợp nhất hai Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội - dân chủ không được tiến hành trên cơ sở loại trừ bọn theo chủ nghĩa xét lại, khiến trong thực tế đã dẫn đến tình trạng Đảng Cộng sản bị Đảng Xã hội - dân chủ cơ hội đồng hóa; tịch thu ruộng đất của địa chủ và tăng lữ, nhưng không chia ruộng đất cho nông dân lao động, thỏa mãn nguyện vọng lâu đời của họ, mà lập ngay những nông trường quốc doanh.

Nước Cộng hoà Xô viết Hunggari ngay từ đầu đã ở trong vòng vây của các nước tư sản phản cách mạng. Tháng 7-1919, Hồng quân Hunggari bị thất bại do những hoạt động phá hoại của bọn xã hội - dân chủ phái hữu.

Ngày 1-8-1919, chính quyền Xô viết Hunggari bị sụp đổ sau 133 ngày đấu tranh anh dũng.

Cách mạng Hunggari năm 1919 lại một lần nữa xác minh một trong những nhân tố thắng lợi chủ yếu của Cách mạng tháng Mười Nga là: Đảng Mác xít - Lêninnít lãnh đạo khối công nông liên minh là một nguyên lí cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc thiết lập nền chuyên chính vô sản. Trong đề cương những điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản đọc tại Đại hội lần thứ II Quốc tế Cộng sản, Lênin đã viết: ''Không một người cộng sản nào được phép quên những bài học của nước Cộng hòa xô viết Hunggari. Việc hợp nhất những người cộng sản Hunggari với bọn theo chủ nghĩa cải lương đã làm cho giai cấp vô sản Hunggari phải trả một giá rất đắt”.

Việc xây dựng khối công nông liên minh vững chắc là điều kiện cần thiết đế giành thắng lợi cho cách mạng vô sản. Chính quyền Xô viết Hunggari đã phạm sai lầm nghiêm trọng trong vấn đề ruộng đất. Nông dân Hunggari tha thiết mong muốn được chia ruộng đất, nhưng chính quyền Xô viết lại đốt cháy giai đoạn, tiến thắng tới việc ''xã hội hóa'' quyền chiếm hữu ruộng đất.

Ở Đức, ngày 13-4-1919, công nhân thành phố Muyních (thủ phủ của xứ Bavie) đã khởi nghĩa cướp chính quyền và thành lập nước Cộng hòa xô viết Bavie. Những người cộng sản và những người phái tả đã cùng nhau lập chính phủ Xô viết do Ơgiơni Lêvie, lãnh tụ của Đảng Cộng sản cầm đầu. Chính quyền Xô viết Bavie đã thực hiện chế độ công nhân quản lí xí nghiệp, quốc hữu hóa ngân hàng, tổ chức hồng quân và thành lập Ủy ban đặc biệt nhằm trấn áp bọn phản cách mạng.

Tuy bị thất bại, sự ra đời của nước Cộng hòa Xô viết Bavie là đỉnh cao của cao trào cách mạng 1918 - 1923 ở Đức.

Như thế, từ sau Cách mạng tháng Mười Nga, cùng với sự ra đời của các Đảng Cộng sản, một trào lưu cách mạng xã hội chủ nghĩa đã bùng nổ và ngày càng lan rộng ra nhiều nước trên thế giới.

III- Sự thành lập Quốc tế Công nhân xã hội chủ nghĩa

Sau khi Ph. Ăngghen qua đời, quyền lãnh đạo Quốc tế II chuyển sang tay những người cơ hội, họ bắt đầu xét lại học thuyết cách mạng của C.Mác. Một số Đảng Xã hội - dân chủ đã giành được thắng lợi trong các đợt bầu cử vào nghị viện và tự quản thành phố. Phản ánh lợi ích của mình, bọn cơ hội - các lãnh tụ của Quốc tế II, đã trở thành những người tuyên truyền ảnh hưởng tư sản trong phong trào công nhân.

Vào đầu thế kỉ XX, trung tâm phong trào cách mạng chuyển sang nước Nga. Dưới ảnh hưởng của cuộc cách mạng 1905 - 1907 ở Nga, phong trào cách mạng của công nhân được đẩy mạnh. Tuy nhiên, các lãnh tụ của Quốc tế II đã coi thường những bài học cách mạng, họ phủ nhận điều chủ yếu trong học thuyết của chủ nghĩa Mác là chuyên chính vô sản, phủ nhận tư tưởng của Lênin về liên minh công nông và tư tưởng chuyển biến từ cách mạng dân chủ tư sản sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Theo đuổi đường lối “hòa bình giai cấp” và sự “chuyển biến hòa bình đưa chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội” họ hướng công nhân vào cuộc đấu tranh đòi cải cách, không đụng đến các cơ sở của chế độ tư bản, trên thực tế củng cố sự thống trị của giai cấp tư sản.

Từ đầu Chiến tranh thế giới thứ nhất, phần đông các lãnh tụ Đảng Xã hội - dân chủ đã chuyển sang hàng ngũ giai cấp tư sản. Chiến tranh đã làm cho các Đảng Xã hội - dân chủ khủng hoảng sâu sắc, đã vạch trần sự phản bội của các lãnh tụ Quốc tế II và các Đảng Xã hội - dân chủ. Quốc tế thứ hai thực tế bị tan rã, một bộ phận trở thành những người sôvanh xã hội phái hữu công khai đứng về giai cấp tư sản như Plêkhanốp, Bécxtainơ, Sâyđơman. Một bô phận, thuộc phái giữa như Cauxki, Trốtxki, Marôtốp, trong lời nói thì cách mạng, thực ra là cải lương thỏa hiệp. Số còn lại là những người cách mạng chân chính, theo đường lối của Lênin và Đảng bônsêvích như Rôda Lúcxămbua, Các Lípnếch.

Số này về sau đã đoạn tuyệt hẳn với Quốc tế thứ hai và gia nhập Quốc tế thứ ba - Quốc tế Cộng sản.

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và trước cao trào cách mạng 1918 - 1923, những người xã hội - dân chủ phái hữu cố gắng khôi phục lại hoạt động của Quốc tế thứ hai nhằm ngăn chặn tính tích cực cách mạng của giai cấp công nhân và làm thất bại kế hoạch lập quốc tế mới theo quan điểm cách mạng của Lênin.

Năm 1921, những người thuộc phải giữa trong Quốc tế thứ hai trước đây cũng tìm cách lôi kéo ảnh hưởng trong quần chúng, đã tuyên bố thành lập một quốc tế mới, gọi là Quốc tế hai rưỡi. Những người thành lập Quốc tế hai rưỡi muốn tìm một quan điểm trung hoà giữa Quốc tế thứ hai và Quốc tế thứ ba của Lênin, nhưng thực chất Quốc tế hai rưỡi cũng phục vụ cho lợi ích giai cấp tư sản, sự đồng nhất của Quốc tế thứ hai và Quốc tế hai rưỡi. Các lãnh tụ Quốc tế hai rưỡi tìm cách duy trì quần chúng trong chính sách thỏa hiệp.

Năm 1923, cả hai trung tâm xã hội - dân chủ nói trên đã hợp nhất lại thành lập quốc tế mới, gọi là Quốc tế Công nhân xã hội chủ nghĩa. Bản thân sự sáp nhập Quốc tế thứ hai và Quốc tế hai rưỡi một mặt nói lên sự đồng nhất về bản chất của các Đảng Xã hội – dân chủ, mặt khác nó thể hiện cuộc chạy đua cạnh tranh lôi kéo quần chúng khỏi ảnh hưởng ngày càng lan rộng của Quốc tế cộng sản.

Quốc tế Công nhân xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục đường lối của Quốc tế thứ hai trước chiến tranh được sự ủng hộ của giai cấp tư sản, coi mục đích chủ yếu là chống lại cách mạng vô sản, trước hết là chống lại Liên Xô xã hội chủ nghĩa. Theo đuổi đường lối chia rẽ phong trào công nhân quốc tế có lợi cho giai cấp tư sản, các lãnh tụ của Quốc tế Công nhân xã hội chủ nghĩa và các Đảng Xã hội - dân chủ đã đóng vai trò đáng kể trong việc đàn áp các cuộc cách mạng 1918 - 1923 ở các nước Tây Âu. Các lãnh tụ của Quốc tế Công nhân xã hội chủ nghĩa đã ủng hộ cuộc can thiệp vũ trang của chính phủ nước mình chống nước Nga Xô viết.

Tới giữa những năm 20 của thể kỉ XX, Quốc tế Công nhân xã hội chủ nghĩa đã thu hút khoảng 6,5 đến 7 triệu đảng viên Đảng Xã hội - dân chủ và khoảng 25 triệu cử tri trong các đợt bầu cử. Trong thời kì ổn định của chủ nghĩa tư bản, nhiều Đảng Xã hội - dân chủ đã thắng cử và tham gia thành lập chính phủ. Tuy nhiên, các chính phủ Đảng Xã hội - dân chủ vẫn chỉ là công cụ phục vụ quyền lợi giai cấp tư sản.

Chính sách hợp tác giai cấp và ''chống cộng'' đã đưa các Đảng Xã hội – dân chủ tới chỗ phá sản, trước sự tấn công của chủ nghĩa phát xít.

Việc thành lập Mặt trận công nhân thống nhất đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít không được thực hiện, quá trình thành lập Mặt trận nhân dân chống phát xít bị ngăn cản. Kết quả là một số Đảng Xã hội đã bị phá sản trước sự tấn công của chủ nghĩa phát xít. Năm 1933, Đảng Xã hội – dân chủ Đức thất bại và tới năm sau, đến lượt Đảng Xã hội Áo.

Đường lối hợp tác giai cấp vô nguyên tắc của các lãnh tụ Đảng Xã hội - dân chủ đã là một trong những nguyên nhân để bọn phát xít lên cầm quyền ở một số nước và thổi bùng lên ngọn lửa Chiến tranh thế giới thứ hai.

VI. Sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai

Giaiđoạn phát triển mới của phong trào cộng sản quốc tế bắt đầu từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến giữa những năm 70. Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của phong trào cộng sản quốc tế. Cuối giai đoạn này, Đảng Cộng sản đã hoạt động ở hơn 90 nước trên thế giới với hơn 75 triệu đảng viên (trong đó, 15 Đảng Cộng sản cầm quyền ở 15 nước xã hội chủ nghĩa với gần 70 triệu đảng viên, 28 Đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển gồm 3,5 triệu đảng viên, 16 Đảng Cộng sản ở các nước đang phát triển ở châu Á, 9 Đảng Cộng sản ở châu Phi và 26 Đảng Cộng sản ở Mĩ latinh gồm tổng số không l,5 triệu đảng viên). Không có một trào lưu tư tưởng chính trị nào có lực lượng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử thế giới trong giai đoạn lịch sử này như phong trào cộng sản quốc tế.

Thành tựu lớn nhất của phong trào cộng sản quốc tế là sự ra đời của hệthống xã hội chủ nghĩa thế giới, làm thay đổi bộ mặt của hành tinh chúng ta. Từ những năm 1944 – 1945 đến 1949, một loạt nước dân chủ nhân dân ở châu Âu và châu Á xuất hiện, cùng với Liên Xô - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới - hình thành hệ thống XHCN thế giới. Từ đây, thế giới chia làm hai phe, hai cực đối địch nhau. Cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống ảnh hưởng to lớn, có tính quyết định đến lịch sử phát triển chính trị thế giới. Sự ra đời và phát triển của hệ thống XHCN thế giới với 1/4 diện tích trái đất và gần l/3 dân số nhân loại với những tiềm lực và thành tựu to lớn trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học - kĩ thuật sau chiến tranh là nhân tố quan trọng, có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển tiến bộ của thế giới trong suốt mấy thập niên giữa thế kỉ XX.

Sự hình thành và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên mà là sự kế tiếp và là kết quả đấu tranh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế kéo dài hàng thế kỉ. Từ giữa thế kỉ XIX, khi mới ra đời phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, chủ nghĩa xã hội mới chỉ được coi như một ''bóng ma ám ảnh châu Âu''. Phải trải qua hơn nửa thế kỉ đấu tranh, tích lũy và chuẩn bị (chuẩn bị lí luận cách mạng, chuẩn bị tổ chức và lực lượng cách mạng, diễn tập qua Công xã Pari 1871 và cách mạng dân chủ tư sản Nga 1905-1907,…) đến năm 1917, chủ nghĩa xã hội mới thắng lợi đầu tiên ở một nước (Liên Xô). Phải trải qua không biết bao nhiêu khó khăn, gian khổ và hi sinh xương máu, phải đánh bại tất cả các cuộc tấn công của các lực lượng thù địch (tiêu biểu là cuộc bao vây, can thiệp quân sự của 14 nước tư bản những năm 1918-1920 và đặc biệt là cuộc tấn công xâm lược của phát xít Hitle những năm 1941-1945), mới bảo vệ được nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và tạo điều kiện cho chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở thành hệ thống thế giới. Như thế, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới là “con đẻ chủ yếu của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế” và phong trào giải phóng dân tộc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Huy tập yêu
24/11/2021 16:55:36
+4đ tặng
Quốc tế Cộng sản (Komintern) (1919 – 1943)
 Cách mạng tháng Mười Nga
 Quốc tế Công nhân xã hội chủ nghĩa

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×