Con người luôn hướng đến những điều tốt đẹp về một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc hơn, một cuộc sống bình đẳng, nơi đó cái thiện sẽ lên ngôi chiến thắng cái ác. Những ước mơ ngàn đời ấy được thể hiện rõ nét qua những câu chuyện cổ tích bình dị, mang cả điệu hồn dân tộc, ru ta lớn khôn từ thời tấm bé. Khi thực tại quá tối tăm thì những người dân lao động chỉ biết tìm thấy chút ánh sáng le lói cháy lên qua những ngọn nến ước mơ nơi cuối đường hầm. Chính vì thế mà đã có nhận định cho rằng: “Cổ tích thần kì là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước”.
Truyện cổ tích thần kì là loại tiêu biểu nhất của truyện cổ tích. Những truyện thuộc tiểu loại này thường ra đời từ rất sơm và những đặc trưng cơ bản của truyện cổ tích đều có thể tìm thấy ở kiểu truyện này. Đặc trưng nổi bật của truyện cổ tích là sử dụng yếu tố kì ảo một cách đậm đặc. Đó là một yếu tố không thể thiếu được của cốt truyện, phản ánh mhữmg ước mơ, nguyện vọng về một xã hội lí tưởng của nhân dân và kết thúc truyện thường có hậu.
Truyện cổ tích tập trung phản ánh số phận của những con người nhỏ bé, khốn khổ, tủi nhục trong xã hội đầy áp bức bất công… Mỗi nhân vật có một số phận khác nhau mhưng đều có chung những phẩm chất tốt đẹp: hiền lành, tốt bụng, tài năng. Đó là anh Khoai nghèo khó, bần hàn nhưng cần cù, chất phác; là chàng Sọ Dừa đội lốt xấu xí nhưng chăm chỉ, hiền lành; là chàng Thạch Sanh có số phận bất hạnh nhưng tài năng, thương người… Họ đại diện cho tầng lớp nhân dân thấp cổ bé họng, sống trong lầm than, khổ cực nhưng vẫn giữ tâm hồn trong sáng, lương thiện, đức tính chăm chỉ, cần cù vốn có.
Truyện cổ tích thần kì xây dựng thành công một thế giới trong mơ ước. Thông qua những câu chuyện ấy một ánh sáng lí tưởng của nhân dân được nêu lên về một xã hội công bằng, dân chủ. Trong đó, người lương thiện, tốt bụng, tài năng sẽ được hưởng hạnh phúc xứng đáng với những phẫm chất tốt đẹp của họ. Một cô Tấm thảo hiền trở thành hoàng hậu; một chàng Thạch Sanh trở thành phò mã… Tất cả đều là những ước mơ, những giấc mơ giản dị mà đẹp đẽ thể hiện cho khát vọng của con người trong cuộc sống. Họ mong muốn những người ở hiền sẽ được gặp lành, còn những kẻ độc ác, xấu xa sẽ bị trừng trị thích đáng. Mơ ước và con người sống trong mơ ước ấy không ngừng đấu tranh để đạt được mơ ước, để biến mơ ước ấy thành hiện thực. Họ mơ ước trong hiện thực và mơ ước về hiện thực, không phải những điều tốt đẹp ở cõi tiên hay một nơi nào khác mà ngay chính giữa cuộc đời họ. Nó vẫn là thế giới ở trần gian, tồn tại, biến động với tất cả sự phong phú, đa dạng, phức tạp của nó. Chỉ có điều, thế giới ấy được hoàn thiện hóa, lí tưởng hóa lên mà thôi.
Trong xã hội loài người, xã hội mà con người đã, đang và sẽ sống luôn luôn tồn tại biết bao nhiêu sự phức tạp, đa dạng thẫm chí cả những mâu thuẫn hết sức gay gắt nóng bỏng. Bên cạnh những điều tốt đẹp, tươi sáng vẫn còn không ít những cái xấu xa, đen tối nhởn nhơ giữa cuộc đời, đặc biệt trong xã hội phong kiến- hoàn cảnh ra đời chủ yếu của truyện cổ tích. Mà con người ngay từ khi xuất hiện đã không ngừng vươn tới chân, thiện, mĩ. Do đó, người ta không thể chấp nhận những điều xấu xa, giả dối kia. Người ta phải xây dựng nên trong khát vọng và trí tưởng tượng của mình một thế giới khác tươi đẹp hơn. Đó cũng là một hình thức phủ nhận hiện thực đen tối. Khi ước mơ không thể thực hiện thì qua những câu chuyện cổ tích ánh sáng kì ảo, chói ngời hạnh phúc vào cuộc đời tối tăm, bất hạnh của con người, khiến họ yêu đời và sống mạnh mẽ hơn. Trong thế giới truyện cổ tích, người hiền sẽ gặp lành, kẻ ác bị trừng trị; sự công bằng được thực hiện, lao động được nhẹ nhàng, tuổi già và cái chết bị đẩy xa; người dị dạng, xấu xí trở nên đẹp đẽ; người mất vợ hoặc người yêu được đoàn tụ; người nghèo sẽ giàu có, người bị áp bức, đau khổ sẽ có địa vị và quyền thế cao sang…
Có thể nói, truyện cổ tích thần kì là sự phản ánh mơ ước của nhân dân về một thế giới tốt đẹp hơn trong tương lai bằng những hư cấu kì ảo. Họ không khoanh tay đứng nhìn để cho mơ ước của mình mãi mãi là điều không tưởng. Chính vì mơ ước là cái không có thực trong hiện tại nên sự phản ánh mơ ước phải là những hư cấu kì ảo do trí tưởng tượng của con người tạo ra. Do đó, nói: “Cổ tích thần kì là những hư cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước” có nghĩa là: truyện cổ tích thần kì là sự phản ánh mơ ước của nhân dân ta về một thế giới tốt đẹp hơn trong tương lai bằng những hư cấu kì ảo. Đồng thời nó cũng phản ánh quyết tâm của người lao động, là đấu tranh cho mơ ước ấy thành hiện thực…
Trong truyện “Tấm Cám” có một bức tranh cuộc sống với những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội. Truyện kể “mẹ Tấm chết từ hồi Tấm mới biết đi”, lời kể ấy đã xác định thân phận mồ côi của Tấm. Trong bao nỗi đau buồn của một đứa trẻ, có lẽ đau khổ, thiệt thòi nhất là thiếu mẹ. Tục ngữ có câu: “Cha chết ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá đầu chợ” để khái quát nỗi đau khổ, thiệt thòi vô cùng của đứa con mồ côi mẹ. Mồ côi cha đã khổ, mồ côi mẹ lại càng thiệt thòi, đau khổ hơn nhiều.
Mọi đau khổ của Tấm đều bắt nguồn từ quan hệ với mẹ con dì ghẻ. Tấm cô đơn chỉ biết khóc mỗi khi bị hành hạ. Bị Cám lừa trút mất giỏ tép, mất hi vọng cái yếm đào, Tấm khóc. Bị lừa đi chăn trâu đồng xa để ở nhà mẹ con Cám làm thịt chú bống bé nhỏ bầu bạn với Tấm, cô lại khóc. Lần thứ ba Tấm khóc là khi cô không được đi hội làng. Tấm lại khóc và dường như tiếng khóc lại một lần nữa đẩy nỗi đau của cô lên cao hơn. Tiếng khóc hay tiếng lòng, hay nỗi uất hận đã đè nén thành hình, thành khối để rồi bật ra nơi từng tiếng khóc nghẹn ngào, ấm ức.
Thân phận đầy đau khổ của cô Tấm trong truyện cổ là thân phận chung của những người nghèo, người mồ côi lương thiện trong xã hội. Mâu thuẫn giữa Tâm với mẹ con dì ghẻ không chỉ là mâu thuẫn là mâu thuẫn dì ghẻ- con chồng mà còn là hình thức biểu hiện cụ thể của xung đột Thiện- Ác trong cuộc đời. Tấm đại diện cho nhân vật thiện chămm chỉ, lương thiện, đôn hậu. Cái ác hiện hình trong mẹ con mụ dì ghẻ qua hành động: lừa gạt lấy mất giỏ tép để tước đoạt ước mơ nhỏ bé của Tấm là cái yếm đào; lén lút giết chết con bôngd là giết chết người bạn nhỏ bé của Tấm; đang tâm trộn thóc với gạo nhằm dập tắt niềm vui được đi hội làng, được giao cảm với đời của cô… Tiếng khóc tội nghiệp của Tấm mỗi lần bị chèn ép, áp bức có sức lay động mọi trái tim nhân hậu, gọi dậy niềm cảm thông chia sẻ với mọi người.
Sống giữa vũng lầy của cuộc đời, “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn” Tấm- đại diện cho người nông dân vẫn vươn lên tỏa ngát như những bông sen mảnh mai mà bền bỉ sức sống. Tước vùi dập của cái ác Tấm hay chính là nhân dân vẫn đấu tranh vì hạnh phúc đến cùng. Tấm tuy đã trở thành hoàng hậu nhưng vẫn bị cái ác tiêu diệt, săn đuổi. Cô Tám lương thiện, hiếu thảo trèo cau hái quả cúng hca đã bị mẹ con Cám chặt cây giết chết. Cô Tấm hiền lành, ngây th vừa ngã xuống một cô gái mạnh mẽ và quyết liệt hơn sống dậy, hóa thân trở về với cuộc đời, công khai chống lại cái ác đòi hạnh phúc. Cuộc chiến đấu đó thật gian nan, quyết liệt nhưng cũng thật hấp dẫn đối với độc giả. Bởi trong cuộc đời, những gì người mồ côi, nhỏ nhoi, yếu thế không làm được thì Tấm đã thay họ thự hiện “oán thì trả oán, ân thì trả ân” đến tận cùng.
Tấm thảo hiền thì dì ghẻ chặt cây sát hại mà không cam chịu chết. Cô hóa vàng an, bay vào cung vua báo hiệu sự có mặt của mình trong lời nhắc nhỏ: “Giặt áo chồng tao phơi lao, phơi sào/ Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao”, vàng anh bị giết chết Tấm hóa cây xoan đào tuyên chiến với kẻ thù trực tiếp và dữ dội hơn: “Lây tranh chồng chị, chị khoét mắt ra”, khug cửi bị đốt cháy. Từ đống tro tàn chết chóc, Tấm hóa cây thị trở lại với đời. Trong sự hóa thân ấy có sự kiên nhẫn và lòng dũng cảm. Phải chăng trong nhân vật Tấm đã hội tụ sự dịu dàng và tính cách bất khuất của người pụ nữ Việt Nam xa xưa.
Tấm đã hóa thân, cái thiện không chịu chết một cách oan ức trong im lặng đã vùng dậy còn cái ác cũng tìm mọi cách tiêu diệt cái thiện. Những lần chết đi sống lại của tấm phản ánh cuộc đấu tranh quyết liệt, gay gắt của cuộc chiến đấu giữ cái thiện với cái ác; đồng thời cũng thể hiện sức sống mãnh liệt, không thể bị triệt tiêu của cái thiện.
Chim vàng anh, cây xoan đào, quả thị là những nơi Tấm gửi gắm linh hồn, cũng là những vật bình dị, thân thương trong cuộc sống dân dã. Nếu như lần đầu câu chuyện, mỗi lần Tấm khóc Bụt thường hiện lên ban tặng vật thần kì, thì phần sau cuộc đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn nhưng Tấm không còn khóc, cũng không còn thấy sự xuất hiện của Bụt, chỉ thấy tấm hành động liên tiếp để chống lại kẻ thù. Cũng chính nhân dân lao động, những người có thân phận như Tấm, những người thấu hiểu và cảm thương cô Tấm thiệt thòi, đã gửi vào cô Tấm ý thức mãnh liệt giành và giữ hạnh phúc của mình. Đằng sau câu chuyện đã ẩn chứa một chân lí: Hạnh phúc chỉ có bền chặt khi ta biết dành và giữ lấy. Vì vậy, nếu lúc đầu mỗi lần Tấm uất ức chỉ biết ngồi khóc, còn bụt làm thay tất cả thì đến đây chim vàng anh, khug cửi, quả thị không thay tấm trong cuộc chiến đấu mà chỉ là nơi hóa thân, tạm ẩn mình để trở về đấu tranh với cái ác quyết liệt hơn.
Nhưng sau nhiwuf lần chết đi sống lại của Tấm, trong lốt chim, cây, quả… Tấm hiểu rằng không thể có hạnh phúc trọn vẹn chừng nào cái ác còn tồn tại, chừng nào mẹ con Cám còn hiển diện. Cô lừa cám để sai người đào hố, dội nước sôi tự tìm đến cái chết. Kết thúc đó nêu lên một triết lí dân gian “ác giả ác bào”, phù hợp với mong ước của nhân dân về sự trừng phạt tận gốc kẻ thù. Cuối cùng hạnh phúc đã trở về với Tấm như món quà tặng quý giá cho lòng thủy chung và sự dũng cảm của cô.
Sự hóa thân nhiều lần rồi trở về cuộc đời của tấm là biểu hiện sinh động của quan niệm về công bằng xã hội và hạnh phúc. Người lương thiện phải được hạnh phúc, còn kẻ ác nhất định bị trừng phạt, đó là quy luật của lòng nhân đạo, tình yêu thương con người. Người lao động không chờ đợi hạnh phúc và mơ hồ ở cõi nào khác mà tìm và giữ hạnh phúc thực sự ngay trên mảnh đất mình từng gắn bó ở nơi trần thế.
Truyện cổ tích thần kì thường giải quyết mâu thuẫn theo hướng: Thiện thắng Ác và nười lương thiện nhất định sẽ được hưởnh hạnh phúc. Con đường dẫn đến hạnh phúc của nhân vật thiện chính là xu hướng giả quyết mâu thuẫn rất đặc trưng của truyện cổ tích. Để giải quyết mâu thuẫn đó, truyện cổ tích thường dử dụng yếu tố kì ảo.
Trong truyện “Tấm Cám” các yểu tố kì ảo được đưa vào sử dụng với “mật độ” dày đặc. Đó là những thế lực siêu nhiên như ông Bụt. Bụt thường xuất hiện đúng lúc mỗi khi tấm khóc, an ủi, nâng đỡ cô mỗi khi Tấm gặp khó khăn hay đau khổ. Tấm mất yếm đào- Bụt cho cá bống, Tấm mất cá bống- Bụt cho hi vọng đổi đời. Tấm không được đi hội- Bụt cho đàn chim sẻ đến giúp. Bụt cho tấm có ngựa, có quần áo mới… đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng hậu và đạt đến đỉnh cao hạnh phúc. Cùng với Bụt, con gà cũng là yếu tố kì ảo, biết cảm thông với Tấm, chim sẻ cũng giúp Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, trợ giúp Tấm trên đường tới hạnh phúc. Hoàng hậu Tấm là hình ảnh cao nhất về hạnh phúc mà nhân dân có thể mơ ước cho cô gái mồ côi nghèo, cô đơn trong xã hội xưa. Những hình ảnh chim vàng anh, khung cửi, quả thị… cũng đều là những yếu tố kì ảo, là vật hóa thân của tấm hỗ trợ cô trên con đường tìm đến hạnh phúc. Mỗi lần hóa thân sức sống ấy lại càng trỗi dậy mãnh liệt hơn, tràn trề hơn khiến cho cuộc chiến giữ Thiện và Ác càng cam go, quyết liệt.
Những đau khổ của nfười mồ côi là có thật và phổ biến, còn hạnh phúc mà họ được hưởng rất hiếm hoi, phần lớn chỉ là mơ ước. Để phản ánh mơ ước về hạnh phúc thông qua nhân vật mồ côi, truyện cổ tích đã “chữa lại” số phận không may mắn cho họ thông qua những yếu tố thần kì. Điều đó thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, hi vọng ở tương lai công bằng, dân chủ của nhân dân lao động.
Cùng với truyện “Tấm Cám”, đến với truyện “Chử Đồng Tử” những ước mơ ấy của nhân dân cũng được thể hiện một cách sâu sắc. Nhân vật Chử Đồng Tử là chàng trai nghèo đánh cá có cuộc sống bần hàn, nghèo khó. Cả “gia tài” của hai cha con chỉ có mỗi một cái khố chung nhau mặc. Trong khi đó, cuộc sống nơi cung đình thì xa hoa, giàu sang tột đỉnh. Chỉ một chuyến đi chơ của công mà có biết bao kẻ hầu người hạ, thuyền, lọng nườm nượp.
Như một sự tình cờ khi Tiên Dung vào bờ tắm thì gặp phải Chử Đồng Tử đang vùi mình dưới cát và duyên số kết thành hai người đã đến vớ nhau. Cuộc hôn nhân của công chúa Tiên dung và chàng trai đánh cá nghèo Chử Đồng Tử vượt ra ngoài khuôn khổ phong kiến, điều đó thể hiện cho khát vọng bình đẳng giữa con người với con người của nhân dân ta.
Hoàn cảnh hai người gặp nhau thật độc đáo. Đó là khung cảnh giữa đất trời bao la, phóng khoáng và Tiên Dung là người ngỏ lời trước. Sống trong xã hội phong kiến thì con người luôn phải chịu ảnh hưởng của tư tưởng nam nữ “Trâu đi tìm cọc”, hành động ấy của Tiên Dung đã nêu lên khát vọng tình yêu trong tự do, thuận theo tình cảm.
Khi bị vua Hùng phản đối, hai vợ chồng Chử Đồng Tử đã tự mình gây dựng nên cuộc sống và họ đã sống trong nhân dân, làm ăn thịnh vượng. Đó là lời ca ngợi tinh thần tự lực cánh sinh, phấn đấu thực hiện ước mơ. Đồng thời, khi cuộc sống đã yên bề gia thất hai vợ chồng vẫn không đối đầu với vua cha mà vẫn hào hảo. Đó chính là tiếng nói của nhân dân không muốn xảy ẻa chiến tranh. Biểu hiện cao đẹp cho giá trị nhân đạo, khát vọng dân chủ mãnh liệt của nhân dân ta.
Và để thực hiện được ước mơ ấy, tác giả dân gian đã thổi vào những yếu tố kì ảo để giúp nhân vật của mình trong bước đường đi tìm hạnh phúc. Để có được tòa thành lớn, có kẻ hầu người hạ đó là nhờ nhà sự Phật Quang truyền cho phép mầu. Tất cả các chi tiết như được “sắp xếp” một cách cẩn trọng, khi Chử Đồng Tử lên núi lấy nước đã vô tình gặp được nhà sư Phật Quang và được ông truyền đạo để rồi có khả năng siêu biệt có thể hóa phép thành nhà cao cửa rộng. Chi tiết cả người lẫn lâu đài thành quách cùng bay về trời để mãi được sống tự do là một chi tiết kì ảo được nhân dân sáng tạo ra để gửi gắm vào đó chân lí “ở hiền gặp lanh”, ước mơ được sống tự do…
Con người muốn hoàn thiện mình, xã hội muốn tiến lên thì phải luôn luôn mơ ước đến những điều tốt đẹp hơn và không ngừng đấu tranh để đạt đến điều mơ ước ấy. “Là những hưb cấu kì ảo về một hiện thực chỉ có trong mơ ước”, truyện cổ tích thàn kì và văn học dân gian nói rộng ra đúng là kho báu tinh thần của dân tộc, rất đáng chúng ta trân trọng và học hỏi.