Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Điều em tâm đắc nhất ở đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích?

2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
1.410
0
0
Hải Hoàng
15/02/2017 00:39:34
Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều.
-Lầu Ngưng Bích: Tên lầu mà Tú Bà dành cho Kiều ở. Lầu ở chênh vênh trên 1 sườn núi.
-Khóa xuân: Khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa không được ra khỏi phòng ở).
à Nguyễn Du sử dụng từ khóa xuân với ngụ ý mỉa mai, nói lên cảnh ngộ trớ trêu của Kiều như tù nhân bị giam lỏng.
-Nàng trơ trọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”. Cảnh “non xa”, “trăng gầ” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dạy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người.
+Hình ảnh “non xa” “trăng gầ”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.
-Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được.
--> Nghệ thuật: Tả cảnh ngụ tình. Cảnh làm nền, tả cảnh để tả tình.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
Ni Lin
15/02/2021 23:20:57

Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ Nguyễn Du. Ông đã góp vào văn học Việt Nam và thế giới một thi phẩm bất hủ. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật điêu luyện, tài tình của ông. Qua những dòng thơ, người đọc cảm thấu được sâu sắc nỗi cô đơn, khắc khoải, tuyệt vọng của Thúy Kiều.

Thúy Kiều sau khi bán mình chuộc cha, bị Mã Giám Sinh hạ nhục, rồi bán vào lầu xanh. Kiều định tự kết liễu đời mình, nhưng không thành công. Tú Bà giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích và hứa sau khi nàng khỏi bệnh sẽ gả nàng vào một gia đình tốt. Kiều ở lầu Ngưng Bích sống trong nỗi cô đơn, buồn bã, nhớ thương quá khứ và lo lắng, sợ hãi cho tương lai chính mình. Bức tranh tâm trạng nàng được miêu tả vô cùng rõ nét.

Trước hết, ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều mang trong mình nỗi cô đơn, chán nản, đau xót cho số phận chính mình: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân/ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung/ Bốn bề bát ngát xa trông/ Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Hai chữ “khóa xuân” nghe sao thật chua xót, tàn nhẫn. Nàng – một người con gái đang ở độ tuổi đẹp nhất, lại bị giam hãm, cầm tù, cảnh ngộ của nàng thật cô đơn tội nghiệp. Sự cô đơn đó còn được tuyệt đối hóa qua các hình ảnh chỉ không gian, thời gian, các sự vật tồn tại xung quanh: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” “bát ngát” “non xa” “trăng gần” “mây sớm đèn khuya”. Hàng loạt các hình ảnh, từ ngữ chỉ không gian cô quạnh đã một lần nữa tô đậm, làm nổi bật sự cô đơn tuyệt đối của Thúy Kiều. Không chỉ vậy cụm từ “mây sớm đèn khuya” còn gợi nên thời gian tuần hoàn, khép kín giam hãm cuộc đời nàng, đẩy Kiều vào nỗi cô đơn, tuyệt vọng, không có lối ra.

Tâm trạng ngổn ngang “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, Kiều nhớ về Kim Trọng – người nàng yêu thương, nhưng lại phải phụ bạc, nhớ về song thân ở nhà mong ngóng tin con. Nguyễn Du đã thật tinh tế khi để nàng nhớ về Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Trật tự nỗi nhớ vừa thể hiện đúng quy luật tâm lí, vừa hợp tình vừa hợp lí. Kiều nhớ về đêm thề nguyền với Kim Trọng: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/ Tin sương luống những rày trông mai chờ”. Câu thơ vang lên như tiếng lòng thổn thức, như tiếng khóc nấc lên theo nhịp của Thúy Kiều khi mường tượng lại những kỉ niệm đẹp đẽ. Nhớ về người thương, nàng lại càng đau đớn, xót xa hơn khi nghĩ đến cảnh Kim Trọng ngày ngày mong tin mình trong vô vọng, giờ đây mỗi người đôi ngả, biết ngày nào mới có thể gặp lại. Nhưng đau xót nhất có lẽ là hai câu thơ sau: “Chân trời góc bể bơ vơ/ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Nói lên thân phận, hoàn cảnh “bơ vơ”, trơ trọi nơi đất khách quê người. Hình ảnh ẩn dụ “tấm son” cho thấy tấm lòng thủy chung son sắt, tình yêu sâu đậm Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.

Về phía cha mẹ, nỗi nhớ của nàng với song thân cho thấy nàng là một người con hết sức hiếu thảo, luôn yêu thương và nghĩ về cha mẹ. Nàng thương cha mẹ đã lớn tuổi lại không có ai ở bên chăm sóc, nàng day dứt trong những ngày hè nóng bức, ngày đông giá lạnh ai sẽ là người lo lắng cho cha mẹ. Nguyễn Du đã sử dụng linh hoạt thành ngữ và điển cố để nói về tấm lòng hiếu thảo của nàng: “Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

Trong hoàn cảnh phải bán mình chuộc cha, lại bị lừa gạt, Kiều là người đáng thương nhất, nhưng nàng đã vượt lên những đau thương của mình nhớ về cha mẹ, người yêu. Điều đó cho thấy nàng là một người thủy chung, sống có tình nghĩa, mang trong mình tấm lòng vị tha, nhân hậu, bao dung.

Tám câu thơ cuối cùng không chỉ cho thấy tâm trạng cô đơn, buồn rầu của Thúy Kiều mà còn cho thấy những dự cảm về tương lai đầy tai ương, sóng gió, câu thơ bật lên nỗi kinh hoàng, lo sợ. Kiều nhớ về cha mẹ, gia đình, quê hương nên nàng thấm thía sâu sắc tình cảm cô đơn, trống vắng của mình: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Cánh buồm thấp thoáng trong không gian chiều ảm đạm thể hiện khao khát được đoàn tụ, được trở về với gia đình của nàng. Không gian dịch chuyển gần hơn về phía nàng, hình ảnh những cánh hoa trôi man mác, vô định khiến Kiều nghĩ về số phận chìm nổi, mỏng manh của chính mình. Bản thân Kiều từ lúc bị bán đi, đã là bắt đầu những chuỗi ngày nổi vô định, tương lai mù mịt đang đổ ập xuống trước mắt Kiều. Câu hỏi tu từ như một lời tự hỏi về tương lai mù mịt của chính bản thân mình. Cặp lục bát tiếp theo, không gian lại được mở rộng: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu,/Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Sắc xanh trong câu thơ này không còn là màu cỏ non như trong cảnh ngày xuân mà là sắc xanh tàn tạ, héo úa, lụi tàn. Màu xanh ấy còn gợi lên sự nhạt nhòa, đơn điệu như chính cuộc sống tẻ nhạt, hiu quạnh, đầy ngao ngán của Thúy Kiều. Câu thơ cuối cùng là lo âu, dự cảm về những tai ương, hiểm nguy đang đón đợi nàng, cảnh hiện ra vô cùng hãi hùng: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Ngọn gió cuốn mặt duềnh cùng với tiếng sóng ầm ầm hung dữ như báo trước, chỉ ngày sau đây thôi, bao nhiêu giông bão trong cuộc đời sẽ nổi lên xô đẩy, vùi dập đời nàng.

Với bút pháp tả cảnh ngụ tình tài ba, cảnh trong tác phẩm của Nguyễn Du vừa thể hiện ngoại cảnh vừa thể hiện tâm cảnh. Đoạn trích đã khắc họa thành công bức tranh tâm trạng Thúy Kiều trong những ngày nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Qua đó còn thể hiện sự cảm thương của Nguyễn Du cho số phận, cho cuộc đời đầy bất hạnh của nàng.

Ni Lin
chấm điểm cho mình nhé

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×