Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Nền văn hoá Việt Nam thấm đẫm tinh thần nhân văn trước hết vì nó luôn đặt con người ở vị trí trung tâm, luôn coi con người là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất của tạo hoá. Rất nhiều câu tục ngữ của ông cha ta đã thể hiện tư tưởng này, như “người ta là hoa của đất”, “người sống đống vàng”, “một mặt người bằng mười mặt của”… Kế thừa truyền thống tốt đẹp đó, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam độc lập trong lịch sử đã “lấy dân làm gốc” trong việc ban hành các chủ trương, chính sách từ kinh tế, xã hội, văn hoá, pháp luật đến an ninh, quốc phòng, ngoại giao. Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách “khoan, giản, an, lạc”, triều Lý có chính sách “ngụ binh ư nông”, triều Trần chủ trương “Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ”, triều Lê có quan niệm “dân như nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền”. Vị trí, vai trò của người dân còn được luật hoá trong bộ luật Hồng Đức, điều 294 có ghi: “Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở cầu điếm, nhựa quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm cháo, thuốc men, cốt sao cứu sống họ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình quan trên và tổ chức chôn cất, không được để lộ thi hài. Nếu phạm tội này thì quan làng xã bị tội biếm hay bãi chức”. Chính vì những tư tưởng tiến bộ này mà TS. PieRisa Feray, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và sưu tầm về Á Đông ngày nay (CERAC) của Pháp trong chương I của tập “Nước Việt Nam từ cội nguồn xa xưa đến ngày nay” đã nhận định: “Các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí con người Việt trong tổng thể các quan hệ xã hội”. Sự tôn trọng con người còn được thể hiện một cách thiết thực hơn bằng việc quan tâm tới lợi ích của người dân. Luôn chăm lo đến dân đã trở thành một tiêu chuẩn để đánh giá một ông vua có phải là minh quân hay không. Đúng như Nguyễn Trãi từng viết: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, làm sao để trong thôn cùng ngõ hẻm không có một tiếng hờn giận, oán sầu.
Không chỉ coi trọng những “dân đen, con đỏ”, trong văn hoá Việt Nam còn có một truyền thống rất đáng quý là đề cao người phụ nữ. Ở một đất nước chịu ảnh hương sâu sắc của Nho giáo (một học thuyết coi rẻ người phụ nữ, coi họ là tiểu nhân), truyền thống này có thể coi là đỉnh cao của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Từ cái gốc của một nền văn minh lúa nước, chúng ta có thể giải thích được tại sao văn hoá Việt Nam lại thiên về tính nữ, đề cao người phụ nữ. Và chúng ta cũng không khó để nhận ra những biểu hiện rất đa dạng của truyền thống này. Nhiều danh từ của Việt Nằm chẳng hề có giới tính mà vẫn được gán chữ “cái” ở trước: cái bàn, cái ghế, cái nhà, cái cửa… Ngoài mạo từ, chữ “cái” còn được dùng như một tính từ để chỉ những gì có vẻ lớn, quan trọng, chính, trung tâm, như con sông lớn gọi là sông cái, đường lớn gọi là đường cái, cửa lớn gọi là cửa cái. Trong một trò chơi, người làm chủ gọi là người cầm cái. Sự sản sinh ra các loại hình nghệ thuật, nghề nghiệp, phần nhiều vẫn do phụ nữ đảm nhiệm. Nghề ươm tơ dệt vải là một nghề truyền thống lâu đời nhất ở Việt Nam, có thể có cùng lúc với nghề cấy lúa. Tổ tiên của nghề này cũng là một người phụ nữ. Ngay cả nghề mộc cũng do một người nữ chỉ dạy. Việc làm nhà do nữ thần mộc dạy cho. Trong một tô canh phần xác gọi là phần cái, để đối lại với nước. Về nghệ thuật sâu khấu hát quan họ được xem như đặc trưng của Việt Nam và có truyền thống lâu đời hơn hát bộ miền Trung và cải lương miền Nam. Người sản sinh ra hát quan họ, dù có nhiều truyền thuyết nhưng nói chung vẫn là phụ nữ. Và có lẽ, cũng ít có một dân tộc nào có đối tượng tín ngưỡng là phụ nữ nhiều như ở Việt Nam. Đi suốt từ Bắc chí Nam, gần như ở địa phương nào cũng có một đền thờ Bà hoặc Cô. Truyền thống đậm chất nhân văn này vẫn được tiếp tục phát huy ở các triều đại phong kiến Việt Nam vốn rất nặng tư tưởng Nho giáo. Điều đó thể hiện rõ nét nhất trong Bộ luật Hồng Đức của nhà Lê. Bộ luật này đã cải thiện một cách khá căn bản địa vị của người phụ nữ trong xã hội khi quy định người vợ có quyền quản lý tài sản của gia đình (khi chồng chết) và có quyền thừa kế như nam giới, hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam. Những tiến bộ vượt trước thời đại này là minh chứng thuyết phục cho chủ nghĩa nhân văn trong văn hoá Việt Nam.
Văn hoá Việt Nam sáng ngời chủ nghĩa nhân văn còn vì dân tộc ta là một dân tộc luôn coi trọng đạo đức nhân phẩm và các giá trị người. Văn hoá Việt Nam cũng rất chú trọng đến tính thiết thực, đến các giá trị vật chất (Có thực mới vực được đạo), song luôn đặt các giá trị tinh thần ở vị trí hàng đầu. Nhiều đạo lý làm người luôn được dân tộc tôn vinh, ca ngợi.
Đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, xưa kia đối với những người có công với nước, với làng thì dân tôn thờ làm thành hoàng làng, hàng năm làng mở lễ hội xuân để tưởng nhớ, đối với tổ tiên thì mỗi gia đình đều có bàn thờ, ngày rằm, mồng một hương khói thờ phụng. Ngày nay, chúng ta có đài liệt sĩ và nghĩa trang liệt sĩ. Cha ông ta vẫn truyền tụng: “Người ta sống vì mồ vì mả. Không ai sống vì cả bát cơm”. Đó là đạo lý sống thuỷ chung, trọng tình, trọng nghĩa: “bán anh em xa, mua láng giềng gần”, hàng xóm “tối lửa, tắt đèn” có nhau. Đó là lối sống cao đẹp luôn giữ trọn phẩm hạnh trong mọi hoàn cảnh “chết vinh còn hơn sống nhục”, “đói cho sạch, rách cho thơm”, “giấy rách phải giữ lấy lề, mà những “bông sen Việt Nam”, “cây tre Việt Nam” chính là biểu tượng cho nhân cách, tâm hồn thanh tao đó. Biểu hiện cao nhất trong các giá trị làm người chính là lòng yêu nước, sẵn sàng xả thân vì hạnh phúc của đồng bào ta hôm nay và mai sau. Có lẽ vì vậy mà chủ nghĩa nhân văn Việt Nam luôn đồng nghĩa với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Và chủ nghĩa yêu nước ấy đã trở thành một giá trị bền vững và cao quý trong chủ nghĩa nhân văn của dân tộc ta.
Ngày nay trong bối cảnh toàn cầu hoá về nhiều mặt, trong đó có văn hoá, chúng ta cần thiết phải giữ gìn những giá trị nhân văn tốt đẹp mà tổ tiên đã để lại. Bởi lẽ, ngoài mặt tích cực, quá trình toàn cầu hoá chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn phức tạp, trong đó ẩn chứa những nguy cơ có thể làm phát triển phiến diện con người. Hội nghị G8 gần đây đã nhắc đến sự cần thiết phải thực hiện một quá trình toàn cầu hoá mang tính nhân văn”. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, khi cá nhân và lợi ích cá nhân được đề cao, thậm chí phát triển thái quá thành chủ nghĩa cá nhân cực đoan... thì những giá trị nhân văn trong văn hoá truyền thống nêu trên không tránh khỏi những thách thức. Quan trọng hơn, gìn giữ và phát huy các giá trị nhân văn trong văn hoá Việt Nam thực chất là để bồi dưỡng và phát triển nhân tố con người Việt Nam, một nguồn nội lực rất quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững của đất nước và chống mọi sự tha hoá nhân cách. Chính vì vậy, Đảng ta xác định dân tộc, nhân văn, trí tuệ, cách mạng là đích đến của văn hoá, văn học Việt Nam”. Chủ nghĩa nhân văn truyền thống dù mang đậm bản sắc dân tộc nhưng trong bối cảnh mới cần phải được phát triển lên trình độ mới để trở thành chủ nghĩa nhân văn hiện đại, kết hợp được những giá trị truyền thống dân tộc với những tinh hoa văn hoá nhân loại và thời đại, tiếp biến các giá trị nhân văn trong các nền văn hoá khác nhau. Trong lịch sử, nhiều giá trị nhân văn ngoại lai đã được dân tộc tiếp thu, cải biến cho phù hợp và dần trở thành các giá trị nhân văn của dân tộc, trở thành văn hoá truyền thống, như lòng từ bi, hỉ xả, cứu khổ cứu nạn của đạo Phật; tinh thần nhân nghĩa, trọng hiếu thảo trong gia đình, dòng tộc... của Khổng giáo; lòng bác ái của đạo Thiên Chúa… Thời cận hiện đã, dân tộc ta cũng tiếp thu nhiều giá trị nhân văn quý báu, phù hợp với truyền thống dân tộc và xu hướng phát triển khách quan của thời đại như tự do, bình đẳng, bác ái… Đặc biệt, hiện nay chúng ta đã và đang tiếp thu, vận dụng sáng tạo và phát huy chủ nghĩa nhân văn triệt để và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, coi đó là nhân lõi của chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Thấm nhuần điều đó, trong chiến lược phát triển công cuộc đổi mới theo chiều sâu, Đảng ta xác định gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh” và phát triển con người tự do, toàn diện.
Tìm về quá khứ, nhưng đích đến của cuộc hành trình này không phải ở quá khứ mà là hướng đến tương lai. Nói cách khác việc khảo cứu những giá trị nhân văn trong văn hoá truyền thống chính là quá trình nhận chân những giá trị của dân tộc Việt nhằm giúp chúng ta tự tin hơn về những gì mình đã có, đang có và tiếp tục phát huy nó trong cuộc sống hiện tạ
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |