LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Nghị luận về 3 tác phẩm: Phú sông Bạch Đằng, Đại cáo Bình Ngô, Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

Nghị luận về 3 tác phẩm:
Phú sông Bạch Đằng
Đại cáo Bình Ngô
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
3 trả lời
Hỏi chi tiết
4.113
4
12
doan man
25/02/2019 21:20:01
Phú sông Bạch Đằng
________________
Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lí- Trần.
Trương Hán Siêu (?- 1354) là nhà văn đời Trần, quê ở Ninh Bình. Thời trẻ, ông từng là môn khách của Trần Hưng Đạo, là người có ít nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên-Mông lần thứ hai và thứ ba. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Trần, là người học vấn uyên thâm, tính tình cương trực, được các vua Trần tôn là thầy, được các nho sĩ đời sau xem là một trí thức nho học chân chính của thời Thịnh Trần. Tác phẩm của ông bộc lộ tinh thần yêu non sông đất nước, tự hào về truyền thống vẻ vang của lịch sử dân tộc, đượm sắc thái trữ tình hoài cổ. Ngôn ngữ trong văn chương của Trương Hán Siêu tinh tế, lắng đọng, sử dụng thành công những hình dung từ giàu sắc thái trữ tình, giọng điệu thi phú rất uyển chuyển.
Bài “Phú sông Bạch Đằng” được sáng tác sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông khoảng 50 năm. Bạch Đằng là con sông ghi dấu nhiều chiến công oanh liệt của dân tộc như trận thắng quân Nam Hán năm 938 của Ngô Quyền, trận thắng quân Nguyên Mông năm 1288 của Trần Hưng Đạo. Đã có rất nhiều nhà thơ viết về con sông lịch sử đầy niềm tự hào này, nhưng bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là nổi tiếng và đặc sắc nhất. Tác phẩm được viết theo lối phú cổ thể. Đây là một thể loại văn có nguồn gốc từ Trung Quốc, viết bằng văn vần hoặc văn xuôi có xen lẫn văn vần, có nội dung kể, tả khách quan các sự việc, phong tục, cảnh vật, bàn sự đời.
Bài “Phú sông Bạch Đằng” có hai nhân vật là khách và các bô lão. Khách trong tác phẩm là người có chí bốn phương, thích du ngoạn, ngắm cảnh, bồi bổ kiến thức “Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều”. Khách bơi thuyền đến sông Bạch Đằng, được gặp các bô lão, được các bô lão kể cho nghe về chiến công oanh liệt của tướng quân nhà Trần năm nào khiến cho “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ-Bầu trời đất chừ sắp đổi” với ‘Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới-Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói”. Khách và các bô lão bình luận về tầm vóc của chiến thắng, rút ra những nguyên nhân thắng lợi và ca ngợi sự tài tình, nhân đức của các vua Trần cùng tướng quân Trần Quốc Tuấn:
Anh minh hai vị thánh quân,
Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.
Giặc tan muôn thủa thanh bình,
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao
“Phú sông Bạch Đằng” là bài phú tiêu biểu bộc lộ lòng yêu nước, tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống anh hùng, truyền thống nhân nghĩa sáng ngời của đất nước ta. Bài phú còn thể hiện tinh thần nhân văn cao đẹp, tâm sự hoài cổ tha thiết của tác giả. Tác phẩm có cấu tứ đơn giản, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, từ ngữ gợi hình sắc, giọng điệu hào hùng trang trọng, có lúc lắng đọng gợi cảm, lúc lại triết lí sâu xa. Tác phẩm được đánh giá là đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật phú của văn học trung đại Việt Nam.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
11
1
doan man
25/02/2019 21:21:25
Đại cáo Bình Ngô
_________________
“Bình ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn” bậc nhất trong văn học chữ Hán cổ điển nước ta, là bản anh hùng ca bằng thể văn biền ngẫu, nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, kể tội quân xâm lược, ngợi ca anh hùng, hào kiệt và võ công trừ bạo của dân tộc ta.Bài đại cáo còn là khúc trữ tình thiết tha trước nổi đau mất nước, chứa chan niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng. cáo là 1 thể văn cổ có từ thời xưa, hoàng đế thường dùng để bổ nhiệm, phong tặng, bảo ban các quan, toàn dân, được gọi là “cáo mệnh”, “cáo phong”, “cáo giới”... đại cáo vốn là tên 1 thiên trong Thượng thư do Chu Công làm để tuyên bố việc phò tá Thành Vương., phế bỏ nhà Ân, sau trở thành thể laọi văn học công bố sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết. đặt tên bài văn này là “bình ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi vừa mún dùng lại tên Đại cáo để công bố đạo lớn, vừa tỏ ý đi theo truyền thống nhân nghĩa lâu đời. Bình là đánh dẹp, Ngô là tên nước cũ thời Tam quốc. Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Giang Tô, lúc đầu xưng là Ngô quốc công, do vậy quân nhà Minh được gọi là quân Ngô. Tên bài này có nghĩa là tuyên bố về sự nghiệp đánh dẹp giặc Ngô.
Là 1 thể văn như có tính quan phương, ko nhất thiết bài cáo nào cũng có giá trị văn học. nhưng vì tầm tư tưởng lón lao, sự kiện trọng đại và lời văn hùng hồn, khảng khái, bài “bình ngô đại cáo” do Nguyễn Trãi làm thay lời Lê Lợi đã trở thành 1 thiên anh hùng ca bằng văn tứ lục.
mở đầu bài cáo, tác giả tuyên bố ngay lập trường chính nghĩa của mình:
“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
2 câu này có nghĩa là: việc nhân nghĩa cốt làm cho nhân dân được yên, mà muốn cho dân yên thì trước hết fải lo tiêu diệt quân tàn bạo. tư tưởng đó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử VN. Cho nên, tiếp theo, bài cáo nhắc lại truyền thống “yên dân trừ bạo” của các triều đại “từ triệu Đinh , Lí, Trần bao đời gây nên độc lập”, đời nào cũng có hào kiệt đứng lên trừ bạo để yên dân. kết wả là Lưu Cung đời Hán thất bại, Trêịu Tiết của Tống tiêu vong. Toa Đô, Ô Mã đời Nguyễn kẻ bị giết, ng` bị bắt. đáng chú ý ở đoạn này là ngay từ đầu Nguyễn Trãi khẳng định đó là truyền thống văn hoá Đại Việt. “Đại Việt” là quốc hiệu của nước ta thời Lí, thời Trần. đời nhà Đinh đặt quốc hiệu là “đại Cồ Việt” cũng theo tinh thần đó. đồng thời ông cũng khẳng định mỗi đằng “làm đế 1 fương”, đối chọi với Bắc đế, nối tiếp truyền thống của Lí Nam Đế, Lí Thường Kiệt đời trước. như vậy, bài đại cáo mở đầu ko chỉ với tư tưởng nhân nghĩa, mà còn với tư thế của 1 quốc gia có chủ quyền. Phần mở đầu nhằm khẳng định sự ngiệp Lê Lợi là sự kế tục vẻ vang của các truyền thống đó.
Phần 2 của bài nói đến tội ác của giặc và tình cảnh khốn khó của nhân dân và Đất nước dưới ách thống trị của giặc Minh. cuộc đánh dẹp nào cũng fải có lí do, mà lí do chính đáng nhất là tội ác của quân thù và nỗi khốn khó của nhân dân. Tác giả đã dùng 12 cặp đối để tố cáo kẻ thù và phơi bày nổi khổ nhục của nhân dân. Đáng chú ý nhất là tính chất huỷ diệt tàn bạo tột cùng của quân xâm lược:
“nướng dân đen trên ngọn lừa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
“Dân đen”, “con đỏ” là hình ảnh ước lệ chỉ ng` dân trăm họ, vô tội. Quân giặc xem dân ta như dê, như cừu, mặc sức tàn hại. Chúng dối trời, lừa dân, gây binh, tính ác trong 2 mươi năm làm cho nhân nghịa bại hoại, đất trời tan nát. Ko có j` ko bị huỷ diệt tàn bạo:
“nặng thuế khoá sạch ko đầm núi”
Vét sản vật, bắt dò chim sá, chốn chốn lưới chăng
Nhìu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cặm đặt”
“tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ”
Tan tác cả nghề canh cửi...”
số phận thê thàm của nhân dân được nhắc tới với 1 tình cảm xót thương sâu nặng:
người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọic, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc”.
“nặng nề những nỗi phu phen”
“nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”.
Tác giả đã khắt hoạ 1 bức tranh khái quát về tội ác chống chất của kẻ thù, mà “Trúc Nam Sơn ko ghi hết tội”, “nước Đông Hải ko rửa hết mùi”.
Người xưa chép sách và thẻ tre. tội ác của giặc Minh cho dù chặc hết trúc Nam Sơn cũng ko ghi hết tội. “khánh trúc nam thư” là thành ngữ của Lã Thị Xuân Thu, ng` TQ thường dùng để kể tội ác quân giặc trong các bài thơ, họch, ở đây dùng để vạch tội ác giặc Minh, thật là đắc dụng. đoạn kể tội kẻ thù được kết thúc bằng vế đối vang dội, đầy tính kích động như 1 lời hịch:
“lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được”
phần thứ 3 của bài cáo là công bố wá trình dấy binh và kháng chiến thắng lợi. đây là phần trữ tình và sảng khoái nhất của bài văn.
Đoạn 1 của phần này gồm 15 cặp đối nói về ý thức sứ mệnh và buổi đầu dựng nghiệp khó khăn của Lê Lợi. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh ng` anh hùng dân tộc, 1 hình tượng trữ tình cao cả, thống nhất.
bằng phương thức tự giới thiệu, bài đại cáo khắc hoạ tấm lòng, chí khí, tài trí, mục đích đầy nghĩa của Lê Lợi. bằng 1 loạt vị ngữ, đoạn văn thể hiện thế giới nội tâm fong fú. 1 lời tự jới thiệu thật dõng dạc:
“ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình”
1 ý thức sứ mệnh tự giác xem mối thù của nước, nỗi đau của trăm họ như của chính mình, ngày đêm canh cánh bên lòng suốt 20 năm
“ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề ko cùng sống
Đau lòng nhức óc, chóc đã mười mấy năm trời
nếm mật nằm gai, há fải 1 2 sớm tối”
“wên ăn, wên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc lấy lại nước nhà:
những trần trọc trong cơn mọng mị
chỉ băn khoăn 1 nỗi đồ hồi”
những hình ảnh “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, “trần trọc trong cơn mộng mị” làm nhớ tới gương chịu đựng gian khổ, nung nấu ý chí chiến đấu vì đại nghĩa.
những nỗi gian nan, khó nhọc buổi đầu như thiếu ng`, thiếu quân, thiếu lương thảo đã thử thách tinh thần nhẫn nại, đức wý trọng hiền tài và khả năng tập hợp của Lê Lợi. Ngư ời tài như sao buổi sớm, như lá mùa thu, vốn rất hiếm, còn tấm lòng cầu mong của Lê Lợi cũng rất chân thành “Cổ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành fía tả”.
Bên trái là chỗ ngồi tôn wý mà Nguỵ công tử Tín Lăng Quân dành để mời ng` gác cửa thành là Hậu Doanh cộng tác với mình. Nhưng càng chờ đợi, “người càng vắng bóng”, và vai trò chủ động của minh chủ Lê Lợi càng nổi bật.
tự ta, ta fải dốc lòng, vội vã hơn cứu ng` chết đuối. cuối cùng, ng` anh hùng đã tập hợp được nhân dân dưới cờ đại nghĩa của mình, tạo thành 1 khối đoàn kết tuyệt đẹp:
“nhân dân 4 cõi 1 nhà, dựng cần trúc, ngọn cớ phấp phới
tướng sĩ 1 lòng phụ từ, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.
Hình ảnh “dựng cần trúc làm cờ” nói lên tích chết cuộc khởi nghĩa của nhân dân, đừng lên vì nghĩa lớn. hình ảnh “hoà nước sông chén rượu ngọt ngào” thể hiện tinh thần đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.
Đồng thời Lê Lợi đã có 1 chiến lược, chiến thuật hết sức đúng đắn:
“thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhìu”.
Đoạn 2 của phần bài kể về cuộc phản công thắng lời. đây là đoạn hào hứng, sảng khoái của bài cáo: nhưng thắng lợi liên tiếp, giòn giã, được kể ra với 1 giọng hả hê, tự hào. ở đây tiếp tục xuất hiện hình tượng ng` lãnh tự thao lược, hình tượng uy lực của nghĩa quân, nhưng nổi bật nhất là hình ảnh thất bại nhục nhã của quân giặc.
Tác giả ko giản đơn kể lại bản tin chiến sự hay bản tổng kết chiến thắng mà còn đem lại niềm tự hào về sức mạnh chính nghĩa:
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Lê Lợi “thay trời hành đạo”, tự cảm nhận được uy lực của nghĩa quân mạnh như uy trời, ko 1 sức mạnh nào chống đỡ được:
“gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông fải cạn
Đánh 1 trận, sạch ko kinh ngạc
Đánh 2 trận, tan tác chim muông
Cơn gió trút sạch lá khô
tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”
các hình ảnh “đá núi mòn”, “nước sông cạn”, “sạch ko kinh ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch lá khô”, “sụt toang đê vỡ” gọi lên 1 sức công fá mạnh mẽ, phi thường của nghĩa quân và sự sụp đổ ko cách j` chống đỡ được của quân giặc. đó là những ẩn dụ thể hiện quy mô vũ trụ, khổng lồ của sức mạnh chính nghĩa.
Cùng với các hình thức khổng lồ, hùng vĩ và hình tượng về nhịp độ chiến thắng mau lẹ như trúc chẻ ngói tan khiến địch trở tay ko kịp, cách vài ngày 1 chiến thắng, cách vài ngày giết 1 tướng giặc.
Hình ảnh thất bại của quân giặc thể hiện rõ rệt nhất cho sức mạnh của quân ta. Những kẻ sống thì kinh hồn bạt vía:
“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía
Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”
“đô Đốc Thôi Tụ lê gối dâng sở tạ tội
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng”
Kẻ chết thì sông máu núi thây:
“Ninh kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm...”
“suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá thây chất thành núi, có nội đầm đìa máu đen...”
ở đây, sự thất bại của quân giặc cũng mang tầm cỡ vũ trụ. “vạn dặm”, “nghìn năm”, “núi”, “sông”, “có nội”.
hình ảnh Lê Lợi điều binh khiển tướng khẩn turơng7, sáng suốt, chủ động, mau lẹ, túc trí đa mưu.
Trái với kẻ thù đã “trí cùng lực kiệt”, Lê Lợi phát huy chiến thuật “mưu phạt, tâm công”. “chẳng đánh mà ng` chịu khuất, ta nay mưu phạt, tâm công”. cả câu này ko chỉ nói chiến thuật mà còn nói về chiến lược: Lê Lợi ko muốn dùng vũ lực để đánh, mà muốn “phạt mưu, tâm công” trước. nhưng quân giặc thất bại cũng ko biết hối cải, còn bày thêm mưu kế, chuốc tội gây oan, cho nên Lê Lợi mới đánh đuổi đến cùng. Đến đây, Lê Lợi bộc lộ 1 thiên tài quân sự lỗi lạc:
“thùa tướng ruỗi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại
tuyển binh tiến đánh. Đông Đô đất cũ thu về”
“ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”.
Ta đánh thắng nhưng ko hiếu sát, ko hiếu chiến, mà rộng lòng hiếu sinh, yêu hoà bình, lập kế lâu dài.
“tường giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
.....................
họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Quân giặc tha về vẫn còn kinh hồn, bạt vía, tạo thành âm vang lâu dài của chiến thắnt vĩ đại.
Tóm lại, tác già ko chỉ thuật lại chiến thắng, mà chủ yếu khắc hoạ uy vũ của chiến thắng, tầm vóc của chiến thắng, ảnh hưởng lâu dài của chiến thắng và nhất là vẻ đẹp của nhân nghĩa, trí dũng của ng` chiến thắng. những đặc điểm này đem lại màu sắc anh hùng ca cho bài cáo.
phần cuối cùng bày tỏ niềm tin vào nền hoà bình lâu dài của đất nước, cảm ơn trời đất, tổ tiên phù hộ.
Bài “bình ngô đại cáo” ko chỉ hay vì phản ánh chiến thắng oanh liệt, thể hiện tầm vóc lớn lao của tư tưởng nhân nghĩa, mà còn hay vì ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu. trong bài văn này, các cặp đối tề chỉnh, nhịp văn tứ lục đã phát huy tác dụng thẩm mĩ cao độ trong việc xây dựng những hình tượng kì vĩ mang tính chất sử thi, thấm nhuần những tình cảm lớn của dân tộc. Bình Ngô đại cáo quả là 1 thiên anh hùng ca bằng văn biền ngẫu.
4
2
doan man
25/02/2019 21:22:29
Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
_________________ Người xưa từng răn dạy rằng "cây ngay không sợ chết đứng", "ở hiền thì gặp lành". Những người chính trực, ngay thẳng thì sẽ nhận được những điều tốt đẹp. Tiếp thu tinh thần ấy, với nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, trí tưởng tượng vô cùng phong phú, Nguyễn Dữ đã viết Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Sự xuất hiện của Truyền kì mạn lục cùng với các tập truyện truyền kì khác như Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan Trì kiến văn lục (Vũ Trinh)… đã mang đến cho văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam một bước phát triển mới, rất đáng tự hào. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên kể chuyện Ngô Tử Văn đốt đền, qua đó thể hiện những nội dung tư tưởng sâu sắc.
Sự xen lẫn các yếu tố hiện thực và yếu tố kì ảo đã mang đến cho truyện một sức hấp dẫn riêng. Ngô Tử Văn là nhân vật chính của tác phẩm, được tác giả giới thiệu theo cách kể chuyện quen thuộc của văn học trung đại, bao gồm tên tuổi, quê quán và tính cách. Tử Văn là người khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không thể chịu được, vùng Bắc vẫn khen là một người cương phương. Tính tình cương trực của Tử Văn đã nổi tiếng cả vùng Bắc, và chính tính cách là mấu chốt của câu chuyện. Tử Văn đã dám làm việc mà mọi người đều kính sợ, không ai dám làm, đó là đốt đền. Theo quan niệm của dân gian, đốt đền là một chuyện động trời, là động đến thần thánh. Tử Văn cũng biết đều đó nhưng chàng không sợ. Hành động của Tử Văn xuất phát từ tính cách "vốn ghét sự gian tà". Chàng đốt đền bởi hồn ma tên tướng giặc trong đền đã "hưng yêu tác quái", đã làm hại dân lành. Hành động này của Tử Văn khẳng định tính tình ngay thẳng và quyết tâm trừ gian tà của chàng. Để trừ gian tà, chàng đã dám làm việc động trời như vậy. Hành động của chàng không phải là hành động ngang ngược của một kẻ vô đạo. Tử Văn là người đọc sách thánh hiền nên chàng hiểu rõ việc mình làm, Tử Văn "tắm gội sạch sẽ, khấn trời, rồi châm lửa đốt đền". Những hành động tiếp theo của Tử Văn đều chứng tỏ chàng là một người ngay thẳng, không chịu khuất phục tà gian. Trước những lời đe doạ của hồn ma tên tướng giặc, Tử Văn "vẫn cứ ngồi ngất ngưởng tự nhiên", trước không khí đáng sợ ở âm phủ, trước lời mắng chửi và đe doạ của Diêm vương, Tử Văn vẫn bình tĩnh khẳng định "Ngô Soạn này là một kẻ sĩ ngay thẳng ở trần gian". Tính tình cương trực đã giúp Tử Văn chiến thắng kẻ ác, chàng đã vạch trần được tội ác của hồn ma lưu vong, đã lấy lại được ngôi đền cho Thổ thần, và trở thành một viên quan phán sự ở Minh ti.
Đối lập với sự ngay thẳng của Tử Văn là sự gian trá, xảo quyệt của viên Bách hộ họ Thôi, một tên tướng giặc bại trận phải bỏ thân nơi đất khách. Không nơi nương tựa, không người cúng tế, hồn ma lưu vong của tên tướng giặc đã cướp ngôi đền của Thổ thần lại còn tác oai tác quái, gây hoạ cho dân lành. Hắn còn xảo trá tới mức đút lót, doạ nạt những thần xung quanh. Khi Tử Văn đốt đền, hắn dùng lí lẽ đạo Nho để buộc tội, lấy oai linh quỷ thần để doạ nạt. Tử Văn không sợ thì hắn xuống tận Diêm Vương để cầu cứu. Sự nham hiểm của kẻ xâm lược, bản chất của kẻ cướp nước còn được thể hiện rõ hơn ở hành động và lời buộc tội Tử Văn trước Diêm Vương. Khi có nguy cơ bị vạch mặt thì hắn giở trò lấp liếm. Nếu như Tử Văn là đại diện của chính nghĩa, của lẽ phải, của tinh thần quật cường không chịu khuất phục trước uy quyền dù chàng chỉ là một hàn sĩ áo vải thì viên tướng giặc họ Thôi là điểm hội tụ bản chất xấu xa của kẻ xâm lược. Mặc dù truyện được viết từ thế kỉ XVI, khi văn xuôi tự sự Việt Nam chưa có nhiều thành tựu đáng kể, nhưng nhân vật của truyện đã được xây dựng với những nét tính cách nhất quán và trở thành những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu cho những loại người khác nhau. Qua hai nhân vật này tác giả đã thể hiện tư tưởng yêu nước sâu sắc: ca ngợi tinh thần yêu chính nghĩa của con người Việt Nam, vạch trần và phê phán bản chất xấu xa của bọn cướp nước. Người chính trực dù chết vẫn chính trực, kẻ tiểu nhân khi về cõi âm vẫn xảo trá đê tiện.
Đặc điểm nổi bật của truyện truyền kì là ẩn đằng sau những yếu tố kì ảo hoang đường, những yếu tố phi hiện thực là cái nhìn, quan điểm, thái độ của nhà văn về hiện thực. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên tuy chủ yếu nói về chuyện thần thánh ma quỷ đầy vẻ hoang đường nhưng lại thể hiện những nội dung hiện thực rất rõ ràng. Nội dung hiện thực được thể hiện ở lai lịch của nhân vật, bối cảnh thời gian và không gian của câu chuyện. Chính những yếu tố này làm tăng sức thuyết phục cho câu chuyện, khiến cho câu chuyện đáng tin hơn. Ngô Tử Văn có tên tuổi, quê quán rõ ràng. Thời gian, tình tiết câu chuyện cũng rất cụ thể, "Năm Giáp Ngọ, có người ở thành Đông Quan…" đã trông thấy Tử Văn ngồi trên xe quan phán sự và "đến nay con cháu Tử Văn hãy còn, người ta truyền rằng đó là "nhà quan phán sự"". Lai lịch của viên Thổ quan và tên tướng giặc họ Thôi cũng gắn với những yếu tố thực của lịch sử. Thổ công là người "làm chức Ngự sử đại phu từ đời vua Lí Nam Đế, vì chết về việc cần vương mà được phong ở đây…", còn tên tướng giặc họ Thôi là "viên tướng bại trận của Bắc triều, cái hồn bơ vơ ở Nam quốc", là viên bộ tướng của Mộc Thạnh…
Sử dụng xen kẽ các yếu tố hiện thực và các yếu tố hư cấu một cách tự nhiên với giọng kể khách quan đã tạo nên sức hấp dẫn rất riêng của truyện truyền kì, đồng thời làm toát lên giá trị hiện thực của tác phẩm.
Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục vào khoảng thế kỉ XVI, thời điểm không mấy sáng sủa của hiện thực Việt Nam. Nhà Lê suy tàn, chính quyền rơi vào tay nhà Mạc nhưng cũng chẳng được bao lâu, nội chiến liên miên, xã hội xảy ra rất nhiều vấn đề. Và bóng dáng của xã hội ấy đã được thể hiện trong một số lời đối thoại của nhân vật. Đoạn đối thoại giữa viên Thổ công với Tử Văn: "sao ngài không kiện… lại đi khinh bỏ chức vị, làm một người áo vải nhà quê?". Thế kỉ XVI, đã có rất nhiều người có tài, có nhân cách, bất lực trước hiện thực mà chọn cuộc sống ẩn dật nơi thôn dã, trong đó có Nguyễn Dữ. Câu trả lời của viên Thổ quan không phải không có yếu tố hiện thực. "Trần sao âm vậy", cõi âm trong tác phẩm là cõi dương thời ấy: "Rễ ác mọc lan, khó lòng lay động. Tôi đã định thưa kiện, nhưng mà có nhiều nỗi ngăn trở: Những đền miếu gần quanh, vì tham của đút, đều bênh vực cho nó cả…". Chỉ một chi tiết nhỏ, tác giả đã phê phán được thói đời, những kẻ có chức, có quyền cấu kết với nhau để hại dân lành, người hiền. Lời nói của Diêm Vương cũng ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc, vừa vạch trần sự dối trá của những kẻ cầm cân nảy mực, vừa thể hiện thái độ đối với giặc xâm lược: "Lũ các ngươi chia toà sở, giữ chức sự, cầm lệnh chí công, làm phép chí công, thưởng thì xứng đáng mà không thiên vị, phạt thì đích xác mà không nghiệt ngã, vậy mà còn có sự dối trá càn bậy như thế; huống chi về đời nhà Hán, nhà Đường buôn quan bán ngục, thì những mối tệ còn nói sao xiết được!". Những chi tiết nhỏ tưởng như vô tình đan cài vào câu chuyện nhưng lại chứa đựng giá trị hiện thực rất quan trọng. Đó chính là sự khéo léo và công phu của người kể chuyện. Sức hấp dẫn của câu chuyện còn được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện đầy kịch tính. Những tình tiết của truyện được dẫn dắt khéo léo và tạo nên nhiều bất ngờ thú vị. Nghệ thuật xây dựng nhân vật, ngôn ngữ đối thoại, phát triển tình tiết… đều thể hiện một trình độ kể chuyện rất hiện đại, khéo léo, vượt xa trình độ văn xuôi trung đại.
Chủ đề nổi bật của truyện vẫn là ca ngợi sự chính trực ngay thẳng. Ngô Tử Văn là tấm gương tiêu biểu cho những người trí thức nước Việt khảng khái, cương trực, dũng cảm chống lại cái ác để trừ hại cho dân. Sự chiến thắng của Tử Văn là sự chiến thắng của lẽ phải, của công lí, thể hiện niềm tin của nhân dân lao động vào lẽ phải. Ngô Tử Văn tuy không được sống lâu nhưng đã bất tử cùng với câu chuyện, đã để lại tiếng thơm muôn đời và trở thành quan phán sự ngự ở đền Tản Viên. Chủ đề ấy còn được thể hiện rõ ở lời bình cuối truyện. Người kể chuyện muốn khẳng định rằng, người chính trực như Ngô Tử Văn mới xứng đáng là người cầm cân nảy mực. Đó cũng là ước muốn chung của nhân dân trong thời buổi xã hội đầy những chuyện ngang tai trái mắt. Bên cạnh đó, tác phẩm còn chĩa mũi nhọn phê phán vào bọn xâm lược và vạch trần mặt trái của xã hội.
Giá trị của Truyền kì mạn lục là ở nội dung hiện thực sâu sắc và cảm hứng ca ngợi những giá trị đạo đức truyền thống. Những con người có bản tính tốt đẹp như Vũ Thị Thiết, như Ngô Tử Văn đều được trở về sống ở thế giới thần thánh, họ đã được thưởng xứng đáng cho phẩm cách tốt đẹp của mình. Tập truyện đã thể hiện một niềm tin mãnh liệt của nhân dân lao động xưa, niềm tin vào chân lí bất diệt của sự sống "ở hiền gặp lành".

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 10 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư