Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài "Đi đường". Phân tích bài "Nước Đại Việt Ta"

5 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
1.091
0
0
Trần Thị Huyền Trang
08/05/2017 19:45:38
Phân tích bài "Đi đường"
Bác Hồ từng tự sự: "Ngâm thơ ta vốn không ham / Nhưng mà trong ngục biết làm sao đây?". Và bởi thế, ra đời trong những năm tháng Bác bị giam cầm, tập thơ "Nhật kí trong tù” từng được ví như một đoá hoa mà vô tình văn học Việt Nam nhặt được bên đường. Toát lên từ tập thơ là một tinh thần "thép" rắn rỏi, lạc quan: “Từ những bài thơ viết trong hoàn cảnh nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo và mục nát toát ra một phong thái ung dung, một khí phách hào hùng, một ý chí sắt đá, một tinh thần lạc quan cách mạng không gì lay chuyển nổi”. Bài thơ "Đi đường" là một trong những số ấy.

“Tài lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”.

Bài thơ được dịch là:

“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị bắt giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bác bị chúng giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác. Đường chuyển lao không những dài dặc mà còn vô cùng gian lao, phải trải qua núi non trùng diệp và những vực thẳm hun hút hiểm sâu. Nhưng dẫu vậy, từ trong khổ đau vẫn bừng lên ý chí “thép” mang đậm phong cách Hồ Chí Minh. Bài thơ “Đi đường” - “Tẩu lộ” đã thể hiện rõ điều đó.

“Đi đường mới biết gian lao”

Câu thơ là một nhận định nhưng đồng thời cũng là một chân lí: Có đi đường mới biết những sự vất vả, khó khăn của việc đi đường. Vậy những điều “nan”, “gian lao” ấy là gì?

“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng"

Đường chuyển lao là những con đường đi qua các vùng núi hiểm trở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tầng tầng lớp lớp những ngọn núi tiếp nối nhau chạy mãi đến chân trời. Hết ngọn núi này lại đến ngọn núi khác. vậy nên mới có hình ảnh “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Trong nguyên văn chữ Hán là “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”. “Trùng san” có nghĩa là trùng trùng lớp lớp núi cao; “hựu” là “lại", câu thơ mang ý nghía: trùng trùng núi cao bên ngoài lại có núi cao trùng trùng. Một câu thơ mà có tớỉ hai chữ “trùng san", huống chi lại có chữ “hựu”, bởi vậy, câu thơ nguyên gốc gợi nên hình ảnh những đỉnh núi nhọn hoắt cao vút trời xanh trập trùng chạy mãi đến chân trời. Con đường ấy, mới chỉ nhìn thôi đã thấy đáng sợ. Nếu tù nhân là một người tù bình thường, ắt hẳn họ đã bị nỗi sợ hãi làm cho yếu mềm, nhụt chí. Nhưng người tù ấy lại là một người cộng sản vĩ đại Hồ Chí Minh. Và bởi vậy, hai câu thơ cuối bài đã thực sự thăng hoa:

“Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”
Hai câu thơ được dịch khá sát là:

“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.

Sau những vẩt vả, nhọc nhằn của con đường leo núi, khi đã lên đến tận đỉnh người tù cách mạng được chứng kiến một hình ảnh vô cùng hùng vi “muôn trùng nước non”. Theo tâm lí thông thường, trên con đường gian lao trập trùng đồi núi, khi lên đến đỉnh, con người dễ lo lắng, mệt mỏi khi nghĩ đến con đường xuống núi dốc thẳm cheo leo và những quả núi ngút ngàn khác. Nhưng Hồ Chí Minh thì ngược lại. Điều Người cảm nhận là niềm ty hào, sung sướng khi được đứng từ trên đỉnh cao chiêm ngưỡng sự hùng vĩ bao la của nước non, vũ trụ. Hình ảnh “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” thật hào sảng. Nó gợi đến hình ảnh bé nhỏ của con người đang đối diện trước cái mênh mông, trập trùng của giang san. Con người ấy không choáng ngợp trước sự kì vĩ của đất trời mà rất vui sướng, bồi hồi như lần đầu tiên được tận mắt nhìn thấy gương mặt của nước non. Chính cảm quan ấy đã nâng vị thế con người sánh ngang tầm non nước. Đứng trước một sự thật khách quan, mỗi con người có một cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy phụ thuộc vào thế giới quan và bản lĩnh của con người, ở Hồ Chí Minh Người đã có những cảm nhận lạc quan, tươi sáng về cuộc đời. Người không bị cái nhọc nhằn của thể xác lấn át đi ước mơ, khát vọng và lí tưởng mà ngược lại, đã vượt qua gian lao để khẳng định ý chí bền bỉ, sắt đá và niềm lạc quan, tin tưởng vào cách mạng của bản thân mình. Đó là tinh thần thép là vẻ đẹp tâm hồn Bác.

Bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy nhọc nhằn trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận hình ảnh Bác vừa có thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt vừa có nét kiên cường rắn rỏi, đầy lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng. Và như thế, bài thơ "Đi đường" - "Tẩu lộ" cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ "Nhật kí trong' tù" thực sự là một đoá hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Trần Thị Huyền Trang
08/05/2017 19:46:46
Phân tích bài "Nước Đại Việt Ta"
Như ta biết, cáo cùng với hịch, chiếu là những văn bản có tính chất công vụ hành chính từ trên ban truyền hoặc trình bày, giải thích một chủ trương hoặc công bố một sự kiện. Ở đây, Nguyễn Trãi dùng từ đại cáo vì sự kiện mà bài văn nói đến là một sự kiện lớn: công cuộc bình Ngô. Đòi hỏi ở một bài cáo nói riêng, một bài văn nghị luận nói chung phải là sự chặt chẽ đã đành, trong trường hợp này, tác giả vừa lược thuật chiến tranh vừa bàn luận về chiến tranh. Nó vừa là lịch sử vừa là tư tưởng. Làm thế nào phối hợp được cái bề nổi và chiều sâu hàm ẩn ấy, điều này quả không đơn giản chút nào. Hiện diện bằng câu chữ thì bài văn gồm có bốn phần: chân dung quốc gia Đại Việt; tội ác của quân thù; cuộc dấy binh thắng lợi; một trang sử mới mở ra, ấy là theo trình tự của loại văn miêu tả, tự sự thông thường. Dựa vào đó mà phân tích không phải là không có lí. Nhưng bài văn còn một tầng nghĩa thứ hai là chuyên chở tư tưởng của người viết. Chính tư tưởng (mạch chìm) của người viết mới tạo ra cho bài văn cái ý nghĩa kép làm cho câu, chữ toả sáng, lung linh, rung động lòng người từ đó đến nay, xứng đáng là một "thiên cổ hùng văn" mà người xưa ca ngợi.

Đặt đoạn một của bài văn trong kết cấu chung, vấn đề cần phân tích để rút ra: sự tồn tại của quốc gia Đại Việt là một chân lí vĩnh hằng. Quốc gia ấy có tư tưởng riêng, có sức mạnh riêng, nghĩa là những yếu tố tinh thần nằm trong một hệ thống song hành cùng với các yếu tố vật chất như địa lí, đất đai. Vậy, tư tưởng riêng ấy là gì? Đừng vội trả lời rằng đó là đạo lí nhân nghĩa, dù câu văn trong bài cáo là "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Bởi nhân nghĩa vốn là học thuyết của Nho gia nói về quan hộ đối xử giữa con người với con người. Nhưng đến Nguyễn Trãi, nó được nâng lên, được mở rộng ra trong một quan hệ khác: giữa các quốc gia, dân tộc với nhau. Cũng như sau này, cách Nguyễn Trãi năm thế kỉ, Hồ Chí Minh, trong Tuyên ngôn Độc lập đã "suy rộng ra" ("Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là..."). Từ quyền sống của con người cá thể, từ đạo lí mà con người cá thể ấy nên theo mà "suy rộng ra" như vậy là hợp lí với lô gích của tư duy, nhất là nó phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của dân tộc ta, một dân tộc vốn là đối tượng nhòm ngó của bao nhiêu thế lực bên ngoài từ đông sang tây, từ nam đến bắc. Nhân nghĩa là trái với bạo ngược. Nhân nghĩa là tình thương và lẽ phải hướng về phía nhân dân. "Trừ bạo" vì "yên dân" là nhân nghĩa, đó là nói chung. Còn nói riêng, khi đất nước bị xâm lăng, vì thương dân (nhân), vì việc phải, nên làm (nghĩa), quân dội ấy trở thành "quân điếu phạt". Nhân nghĩa không còn là một khái niệm khoan dung mà là trừ ác, có trừ ác mới đạt được cái đích yên dân. Tính chặt chẽ trong lập luận nổi bật hẳn' lên giữa hai khía cạnh tướng như đối lập mà thống nhất. Hai câu văn như hàm súc một chân lí thiêng liêng, là người nói mà như là trời nói, nghĩa là cùng một thứ "sách trời" (hai chữ thiên thư trong Nam quốc sơn hà). Chính sự mở rộng về khái niệm nhân nghĩa này, Nguyễn Trãi đã đưa được nó vào một khái niệm rộng hơn : nền văn hiến. Đất nước có chủ quyển không chỉ dựa vào yếu tố lịch sử, đất đai, mà chủ yếu là đất nước ấy thực sự có một nền văn hiến. Đó là dấu hiệu của một nền văn minh. Nền văn hoá phi vật thể này chính là sự bổ sung quan trọng cho tinh thần dân tộc. Quốc gia Đại Việt không chỉ có "Núi sông bờ cõi đã chia" (dùng lại ý trong bài Nam quốc sơn hà) mà còn có "Phong tục Bắc Nam cũng khác". Cái khác ấy phải chăng là ở chỗ chúng ta, dân tộc ta đã nâng khái niệm nhân nghĩa thành lẽ sống, thành đạo lí, thành bản lĩnh, cốt cách riêng của mình. Bức chân dung tinh thần của quốc gia Đại Việt có phần chìm chính là ở chỗ đó. Và cũng chính là vì lẽ đó mà Nguyễn Trãi có thể tự hào: một nước nhỏ mà có thể sánh vai, ngang hàng với một nước lớn:

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần hao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương.

So với câu thơ "Nam quốc sơn hà Nam đế cư" đời Lí, niềm tự hào, tự tôn đã nâng lên một bậc, nâng lên bằng một ý thức văn hoá hẳn hoi. Cái linh, cái hồn vía của "địa linh" đã tạo ra "nhân kiệt" là lẽ đương nhiên như thế. Cách nhìn vào Jịch sử dân tộc bằng cái nhìn như thế là có chiều sâu, đảm bảo được sức sống trường tồn không gì khuất phục được. Đoạn văn trần thuật, đúng hơn là tự thuật ấy nếu hiểu sâu xa thì có đến hai lớp nghĩa: giữa các triều đại phương Nam và phương Bắc không chỉ có sự tồn tại ngang hàng mà còn có lí do để có sự tồn tại ngang hàng. Muốn tồn tại ngang hàng, quốc gia Đại Việt đã trả bằng máu của mình, nhưng dù có thế, chúng ta đã "thà hi sinh tất cả" (chữ của Hổ Chí Minh) để đánh đổi lấy chủ quyền, độc lập, tự do. Còn một điều nữa: nếu tính toán, cân đong một cách máy móc, bình quân thì lịch sử của mảnh đất phương Nam làm sao có độ dài tương đương lịch sử vùng đất phương Bắc ? Điều mà Nguyễn Trãi nói là "bao đời xây nền độc lập", hay "Như nước Đại Việt ta từ trước", hoặc "Vốn xưng nền văn hiến đã lâu" thực thì chỉ mấy trăm năm làm sao có thể sánh vai với lịch sứ mấy ngàn năm tính từ thời Xuân thu - Chiến quốc ? Sự thiếu hụt về độ dài vật lí ấy đã có niềm kiêu hãnh về tâm lí bù vào để cán cân không còn nghiêng lệch. Nó có đủ độ cân bằng. Đoạn văn không hề có ý định chứng minh (vì chỉ có mục đích trần thuật) mà có tác dụng như một sự tự phản biện (hỏi và đáp) một cách hùng hồn, ấy là do âm vang của lòng yêu nước tự thân lên tiếng. Ấy là tiếng nói tự bên trong, cái ý ở ngoài lời, lặn sâu dưới mặt bằng câu chữ.

Đoạn văn thực sự có mục đích chứng minh bắt đầu từ hai chữ "Vậy nên" :

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất hại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong...

Nhưng nó chứng minh cho cái gì ? Có lẽ cả hai, cả tư tưởng nhân nghĩa, một đạo lí làm người, ngọn cờ của đội quân "điếu phạt", cả chủ quyển dân tộc dựa trên tư tưởng ấy, nghĩa là dựa trên nền tảng của một "nền văn hiến đã lâu". Cuộc dụng đầu lịch sử giữa kẻ phi nghĩa, bất nhân với quốc gia Đại Việt là trên tinh thần ấy. Kẻ thù "thất bại", "tiêu vong" vì động cơ ích kỉ, vì "thích lớn", "tham công". Dựa vào tướng giỏi, quân đông, không "lấy nhân nghĩa làm gốc", mà chỉ lấy "trí dũng làm cành", hậu quả ấy không thể nào tránh khỏi. Ở đây vừa có cái nguyên cớ của sự bại vong, có cả chứng tích của sự bại vong như những hiện vật trong viện bảo tàng, với kẻ địch là một sự nhục nhã muôn đời khôn rửa, tiếng xấu còn ghi, còn với ta, đó là minh chứng cho một lẽ phái hùng hồn mà dân tộc Đại Việt đã gửi trọn niềm tin vào đó (tất nhiên còn là tinh thần xả thân, ý thức và hành động xả thân - như cách nói của Trần Quốc Tuấn ("Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa"). Bạch Đằng, Hàm Tử với lịch sử dân tộc như những dấu son chói lọi làm phấn chấn lòng người bao nhiêu thì cũng những địa danh đó, với kẻ địch, bao nhiêu tham vọng, danh dự bị vĩnh viễn chôn vùi. Nhưng còn đáng nói thêm : lời tiên tri (hai câu đầu bài cáo) đã có ứng nghiệm theo luật quả báo (nhân nào quả ấy) tức thời. Cái chết của Ô Mã, của Toa Đô với chúng là đột ngột, bất ngờ, không sao hiểu nổi. Ngược lại cái chết "bất đắc kì tử" ấy, chí chúng ta hiểu : điều gì xảy ra tất phải xảy ra theo luật định, mệnh trời.

Đoạn văn mở đầu bài Bình Ngô đợi cáo không dài, tuy vậy, nó vẫn là điểm tựa, là nền móng lí luận cho toàn bài. Nó đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của kẻ dẫn đường từ nơi xuất phát. Đoạn vãn ấy có sức khái quát rất cao: biến những gì đã xảy ra thành những quy luật vận hành. Người thắng kẻ thua là do nghĩ và làm thuận chiều hay ngược chiều với nó. Khép lại đoạn văn bằng hai câu "Việc xưa xem xét - Chứng cớ còn ghi", Nguyễn Trãi muốn biến lời nói của mình thành lời của người chép sử, biến cái chủ quan thành khách quan, biến một hiện tượng cá biệt thành quy luật muôn đời để mọi tính toán của con người hãy soi mình vào đó. Bể nổi của lời văn là sự nghiêm khắc răn dạy, còn chiều sâu thấm thìa một đạo lí, một tư tưởng, một lẽ phải làm người: nhân nghĩa.
0
0
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
08/05/2017 20:05:23
2
Lòng yêu nước là một đề tài quan trọng xuyên suốt mấy thế kỉ của nền văn học Việt Nam. Trong buổi đầu non trẻ của văn học dân tộc, đề tài này đã được khai thác thể hiện lòng tự hào của mỗi người con dân đất Việt. Ta có thể kể đến các tác phẩm: "Nam quốc sơn hà" của Lí Thường Kiệt (?), "Phò giá về kinh" của Trần Quang Khải, "Bạch Đằng giang phú" của Trương Hán Siêu,... Và không thể không nhắc đến "Đại cáo bình Ngô" của Nguyễn Trãi. Trích đoạn sau đây của bài cáo nổi tiếng này chẳng những thể hiện sâu sắc lòng yêu nước của tác giả mà còn gợi nhiều suy nghĩ giàu ý nghĩa về lòng yêu nước:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
...
Chứng có còn ghi".

Trích đoạn “Nước Đại Việt ta” được trích từ “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi. Bài cáo được viết cuối năm 1427 đầu nàm 1428 sau khi Lê Lợi cùng nghĩa quân Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh xâm lược. Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa đã rửa sạch vết nhơ mất nước do nhà Hồ gây ra đồng thời chấm dứt hoạ đô hộ cùng những chính sách dã man, những hành động tàn bạo mà giặc Minh gây ra cho nhân dân ta. Ra đời trong hoàn cảnh đó, “Bình Ngô đại cáo” đã tái hiện quá trình hơn hai mươi năm khởi nghĩa đẩy nhọc nhằn, khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn; những nỗi đau mà dân tộc phải hứng chịu cũng như chiến thắng đầy hào khí của cuộc khởi nghĩa oanh liệt trước kẻ thù. Kết lại bài cáo, Nguyễn Trãi đã bố cáo cho toàn thiên hạ về nền độc lập lâu bền của đất nước và giương cao lòng nhân nghĩa trong nhân gian.

Nếu “Nam quốc sơn hà” của Lí Thường Kiệt được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chính là bản tuyên ngôn độc lập đầy hào sảng thứ hai của đất nước ta. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” chính là đoạn trích thể hiện rỏ nhất nội dung tuyên ngôn ấy.

Mở đầu đoạn trích là tuyên ngôn nhân nghĩa của bài cáo:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Điều ấy có nghĩa là việc nhân nghĩa trên đời cốt ở việc giữ sự bình yên cho dân chúng, quân đội binh lính việc trước tiên là lo trừ bạo, trừ giặc cho dân. Hai câu văn ấy đã khẳng định tư tưởng lấy dân làm gốc “dĩ dân vi bản” đầy tiến bộ. Trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, tư tưởng nhân nghĩa thường bó hẹp trong cách hiểu là làm điều thiện giúp đỡ người khác. Như trong “Truyện Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu, việc nhân nghĩa là việc cứu người bị nạn: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, ông ngư cứu Lục Vân Tiên... “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. Nhưng với Nguyễn Trãi, ở cương vị một bậc quân sư tham mưu cho chủ tướng - nhà vua Lê Lợi, ông đã có cái nhìn khái quát và sâu sắc hơn. Xét đến tận cùng, bản chất của nhân nghĩa là yêu dân, thương dân, làm cho dân có được cuộc sống yên vui, no đủ. Không chỉ vậy, cũng theo quan niệm xưa, binh lính là lực lượng bảo vệ quyền lợi của nhà vua và giai cấp phong kiến. Song trong trích đoạn này, Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng, nhiệm vụ thiêng liêng, cao cả nhất của quân đội là “lo trừ bạo” cho an dân, bình thiên hạ. Tư tưởng ấy chi có thể có ở một bậc ái quốc, ái dân vĩ đại.

Và cũng xuất phát từ tấm lòng thương dân tha thiết, Nguyễn Trãi có một lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc. Xưa, trong “Nam quốc sơn hà”, tác giả bài thơ “thần” đã khẳng định nền độc lập của đất nước trên phương diện lãnh thổ, đất,đai và bộ máy quyển lực. Nay, Nguyễn Trãi đã bổ sung để hoàn chỉnh những yếu tố góp phần khẳng định quyền tự chủ độc lập đáng tự hào của dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”

“Nước Đại Việt ta từ trước” đã vốn có nền văn hiến từ lâu. Văn hiến là những giá trị tinh thần mà con người đã sáng tạo ra, đó là tín ngưỡng, là tư tưởng, là đạo đức... Phải là một dân tộc có bề dày lịch sử, có trí tuệ, có chiều dài phát triển lâu bền mới xây dựng được cho mình một nền văn hiến riêng biệt. Nói cách khác, văn hiến là dấu hiệu của sự văn minh. Không chỉ có sự riêng biệt về nền văn hiến của dân cư, xét về cương vị lãnh thổ nước ta cũng có biên giới riêng biệt: “Núi sông bờ cõi đã chia”. Câu văn này gợi đến cái hồn của câu thơ “thần” năm 1076 “Sông núi nước Nam vua Nam ở / Rành rành định phận ở sách trời”. Núi sông bờ cõi và cương vực lãnh thổ của đất nước đã được phân chia rạch ròi trong lịch sử, trong tiềm thức của mỗi người dân hai quốc gia. Và chính điều tâm niệm thiêng liêng ấy đã tạo nên ý thức xây dựng, bảo tồn, phân biệt về phong tục tập quán của nhân dân hai đất nước: “Phong tục Bắc Nam cũng khác”. Phong tục tập quán là những thói quen trong đời sống, sinh hoạt đã ăn sâu vào cách sống, cách nghĩ của con người. Có thể nói, cùng với nền văn hiến lâu đời, phong tục tập quán đã cùng góp phần tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam.

Nền độc lập tự chủ của đất nước không chỉ được tạo nên từ những nét riêng biệt trong quần chúng nhân dân và lãnh thổ đất nước mà còn được đánh dấu bằng sự độc lập về bộ máy chính quyền - triều đại trị vì và những cá nhân kiệt xuất:

"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Hai câu văn điểm tên các triều đại hai đất nước đối nhau rất chỉnh, điều đó khẳng định vị thế ngang hàng nhau của các bậc vương tử hai nhà nước. Chữ “đế” trong câu thứ hai “mỗi bên xưng đế một phương” được dùng rất “đắc địa”. Xưa nay, vua chúa Trung Hoa tự coi mình là “thiên tử” (con trời), họ tự xưng “đế” và gọi vua các nước khác là “vương”. Trong bài cáo này, Nguyễn Trãi đầy tự hào khi khẳng định các nhà vua của ta cũng là “đế” sánh ngang hàng với vua chúa Trung Hoa: “mỗi bên xưng đế một phương”, vậy nên không hề có quan hệ nước lớn - nước nhỏ như các triều đại phong kiến phương Bắc từng quan niệm. Không chỉ vậy, khi nêu tên các triều đại hai đất nước, Nguyễn Trãi đã đặt nước ta lên trước. Chỉ một chi tiết nhỏ thôi song hàm ý ẩn chứa trong đó rất sâu sắc: nó khẳng định lòng tự tôn dân tộc của tác giả nói riêng và mỗi người Việt Nam nói chung.

Bên cạnh những ông vua hiền và các triều đại phong kiến tiêu biểu, nước ta cũng có những anh tài hào kiệt. Dù rất tự hào về dân tộc nhưng Nguyễn Trãi cũng không phóng đại những ưu điểm và không giấu giếm những giai đoạn suy thoái, ông viết “Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau”. Để từ đó, lời khẳng định của ông đầy sức thuyết phục: “Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Bằng một đoạn văn ngắn ngủi, Nguyễn Trãi đã thuyết phục người đọc, người nghe về những yếu tố góp phần khẳng định nền độc lập dân tộc. Chính bởi nền độc lập thiêng liêng ấy mà mỗi người dân Đại Việt đều sẵn sàng xả thân vì đất nước và dẫu kẻ thù có mạnh đến đâu cũng bị khuất phục bởi sức mạnh được khơi nguồn từ nền văn hiến lâu đời, từ chủ quyền lãnh thổ linh thiêng...

Bởi vậy:

Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi”

Những dẫn chứng cụ thể của đoạn trích về những thất bại của giặc đanh thép như một bản cáo trạng. Hàng loạt tên của giặc được liệt kê: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã liền theo đó là những địa danh lẫy lừng gắn với thất bại thê thảm của giặc và cũng là chiến thắng vang dội của ta: cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng. Điều đặc biệt là đoạn văn này có nhịp câu thay đổi đột ngột, trở nên ngắn và đanh hơn; các câu lại đối nhau rất chặt “Lưu Cung” - "Triệu Tiết", "tham công” - "thích lớn", "nên thất bại" - "phải tiêu vong", "Cửa Hàm Tử" - "Sông Bạch Đằng", "bắt sống Toa Đô” - "giết tươi Ô Mã",... Những yếu tố đó khiến đoạn văn giống như lời cảnh cáo đối với những âm mưu xâm lược của kẻ thù đồng thời nêu cao niềm tự hào về truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông.

Có thể nói, đoạn văn bản "Nước Đại Việt ta" đã thể hiện một cách hùng hồn lòng yêu nước thông qua việc nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa yêu nước thương dân đồng thời bày tỏ niềm tự hào về quyền độc lập tự chủ của đất nước và truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên. Lòng yêu nước là những điều thật giản dị, tình cảm ấy nằm ngay trong những suy nghĩ, cảm xúc của mỗi chúng ta về nơi mình sinh ra, lớn lên. Và chính những tình cảm ấy sẽ trở thành động lực để chúng ta phân đấu học tập rèn luyện vì tương lai quê hương, đất nước mình.
0
0
NGUYỄN THỊ THU HẰNG
08/05/2017 20:06:10
1
Đi đường là một trong số những bài thơ tiêu biểu của tập Nhật kí trong tù. Bởi vì cùng với bao nỗi khổ vì đói, rét, ốm, đau,... mà mọi người tù phải chịu, còn một sự hành hạ là bị giải đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, thì riêng Bác chịu nỗi đoạ đày. Tuy nhiên, chính trong cảnh phải chịu một thứ hình phạt vô lí và điển hình này, phẩm chất của người tù (là Bác) càng rạng rỡ lên. Bác đã giành được một kỉ lục mới: chiến thắng hoàn cảnh, chiến thắng bản thân và như thế không còn gì đáng sợ nữa. Đó là chiến thắng của ý chí, một ý chí phi thường để con người đáng được gọi là Con Người, Con Người viết hoa theo ý của Go-rơ-ki như một vầng hào quang thần thánh. Bài thơ, nếu theo cách phân đoạn tự nhiên thì gồm có hai phần : hai câu đầu tả cảnh, hai câu cuối tả tình. Nhưng hình thức phân chia này với trường hợp Đi đường hơi có phần máy móc. Phương pháp tả cảnh ngụ tình như tiếng hát bè đôi chạy dọc bài thơ, không có câu nào chỉ là tả cảnh. Tinh đã lẫn vào trong cảnh và qua cả bài thơ tả cảnh ta nhận ra hoàn chỉnh một gương mặt con người, một con người chưa có trong văn học phương Đông, nhất là sự hiện diện ấy trong thể thơ tứ tuyệt: Đi đường mới biết gian lao, Đọc câu thơ tưởng như nhẹ nhõm này ta thấy một sức mạnh ngàn cân. Ý thơ, lời thơ không mới, nhưng nếu đặt nó vào trong một hoàn cảnh đi đường cụ thể của Bác trong hơn một năm bị xiềng xích tù đày, ta mới cảm thông, thấu hiểu. Đi đường ở đây là đi trong mọi điều kiện thời tiết, địa hình. Thời tiết thì mưa nhiều hơn nắng, đường là đường núi nên khấp khểnh, gồ ghề, nhất là lại ra đi từ khi trời còn tối, có khi một, hai giờ sáng đã phải ra đi. Đã có lần sự nguy hiểm không còn là tưởng tượng: "Trượt chân lỡ bước sa vào hố - May nhảy ra ngoài suýt nữa nguy" (Trượt ngã). Một chữ gian lao mà Bác "biết" là như thế. Nó chứa đựng bao nhiêu thử thách, nó đối mặt với ý chí con người mà chỉ có những người "đi đường" mới biết. Bằng thể thơ nhật kí, không một chút đẽo gọt, khoa trương, nhất là trong bức tranh tự hoạ, câu thơ đọc lên có một độ ngân rung từ nỗi niềm có thật. Cái có thật ấy với cách nói đơn sơ không khỏi làm người đọc rùng mình. Ấn tượng gian nan trong nguyên bản được khắc hoạ hơn bản dịch vì nó có một tiết tấu riêng, một cách láy đi láy lại riêng như một tứ thơ tự thoại : Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan Hai chữ "tẩu lộ" (đi đường) như những nốt nhấn đúng nhịp (nhịp 4/3) vừa như một nhận xét vừa như một nghiền ngẫm nghĩ suy chiêm nghiệm bằng chính máu thịt của mình. Sự truyền cảm không cố tình trong câu thơ hàm súc, dồn nén cứ tự nó bật ra mà đâu có nhiều lời. Cái giản dị trong thơ là như vậy, nói ít không phải là không có gì để nói, mà ngược lại: nội dung dồi dào, còn câu chữ cứ như không. Nguyên tắc kiệm lời trong thơ phải chăng là như thế ? Về ý câu thơ này, tục ngữ đã nói "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Bác cũng đang học, đang "biết" bằng cảnh ngộ của riêng mình, rút ra bài học cho chính mình : có đi đường mới biết việc đi đường là khó. Một chữ tri (biết) đơn giản vậy thôi mà có thể cả đời không học được, ví dụ như cái khổ của người làm đường rất xa lạ với kẻ đi đường: Ngựa xe hành khách thường qua lại, Biết cảm ơn anh được mấy người ! (Phu làm đường) Câu thứ hai trong bài Đi đường như phát triển ý, minh hoạ cho câu thơ thứ nhất : Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Cảnh ở đây là cảnh núi, chỉ có núi và núi mà thối. Núi kết hợp với sông trong cổ hoạ là những bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Nhưng núi ở đây không nằm trong hộ thống nghệ thuật ấy. Nó trần trụi những gian lao mà người đi đường ngần ngại. Ngần ngại cũng phải. Đây là một chi tiết tâm tình rất thực, thể hiện trong tiết tấu "Trùng san chi ngoại hựu trùng san". Giữa hai chữ trùng san bố trí ở đầu câu và cuối câu như một sự vây bọc bịt bùng là một chữ hựu (lại). Vừa mới vượt được một dãy núi cao nạy chưa kịp nghỉ ngơi, một dãy núi cao khác lại hiện ra, hỏi ai có thể bình tĩnh mà thư thái trong lòng. Một chữ hựu đơn giản vậy thôi mà bao nhiêu chất chứa, nó rất nặng nề trong tâm trí của kẻ chinh nhân. Núi ở đây không đồng nghĩa với cái đẹp, cái hào hùng. Thậm chí, có khi qua một thắng cảnh hẳn hoi mà lòng người chưa yên, cái bứt rứt ấy trong thơ vẫn hiện ra rõ rệt : Quế Lâm không quế, không rừng, Sông sâu thâm thẳm, trập trùng núi cao. (Đến Quế Lâm) Lộ trình trong bài thơ đến câu thứ ba vẫn còn chưa chấm dứt, thậm chí còn phải vượt một đĩnh cao khác hơn mọi thứ "trùng san" : Núi cao lên đến tận cùng, Trong thơ tứ tuyệt truyền thống phương Đông, câu thứ ba là câu chuyển: chuyển cảnh, chuyển tình. Ý thức được vị trí đặc biệt của nó như một thứ cầu nối của mạch thơ, câu thơ nói về núi cao ấy một mặt như là tiếp tục của hai câu trước nó, tiếp tục và phát triển cao hơn. Cảm nhận từ sự lấy đà ấy từ nhịp thơ. Ta chú ý hai chữ trùng san trong hai câu hai và ba đầy dụng ý : Trùng san chi ngoại hựu trùng san ; Trùng san đăng đáo cao phong hậu Mật độ của nó vốn đã dày, lúc này càng dày hơn. Cũng là điệp ngữ nhưng trùng san ở cuối câu hai và trùng san ở đầu câu ba là điệp nối tiếp, lặp vòng. Tiết tấu của thơ không còn chậm rãi, đều đều. Nó khẩn trương hơn, có phần thanh thoát hơn như một cuộc chuẩn bị. Phảng phất trong câu thơ một thứ âm nhạc tâm hồn khác, xốn xang. Vậy cái gì xảy ra sau đó ? Một sự gục ngã ư ? Một chiến thắng ư ? Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non Với người đọc, có thể là một tiếng thở phào nhẹ nhõm, bởi trong lòng cất đi được gánh nặng ngàn cân. Còn với người đi đường thì khác. Chỉ trong một chớp mắt, tình thế đã đổi thay, tâm trạng đã đổi thay, cán cân lực lượng về mặt tinh thần giữa người đi đường và những gian truân trên con đường đèo dốc đã thay đổi theo chiểu ngược lại. vẫn là những điệp trùng núi ấy nhưng bây giờ chúng không đơn điệu nữa mà tươi đẹp hẳn lên. Không vô cảm mà như có hồn. Điệp trùng núi đã trở lên "muôn trùng nước non". Tập hợp tất cả mọi thứ "trùng san" lại, bằng một cái nhìn khác, chúng trở thành "vạn lí dư đồ" lộng lẫy, hoành tráng, mĩ lệ biết bao! Tư thế của người đi đường - từ vị trí nạn nhân đã trở thành chủ nhân - đã tạo cho núi non một gương mặt khác. Người đi đường chủ động đã thu vào đôi mắt tất cả núi non trùng điệp với niềm vui vô hạn. Niềm hạnh phúc dạt dào không gì so sánh được, ấy là niềm vui vì chiến thắng được hoàn cảnh - một hoàn cảnh đầy rẫy những núi cao thử thách, nhất là vì chiến thắng được bản thân. Người tù thi sĩ ấy đến lúc này mới xuất hiện. Dấu hiệu của thi nhân là thổi hồn vào cảnh vật, làm bừng lên một sức sống diệu kì từ một thiên nhiên vô cảm. Niềm hạnh phúc ấy ở đây không tự nhiên mà có. Phải chăng là cái điều tâm niệm của Người khi mới bước vào chốn lao lung chí là một mơ ước, một quyết tâm, nay đã trở thành sự thật : Thân thể ở trong lao, Tinh thần ở ngoài lao ; Muốn nên sự nghiệp lớn, Tinh thần càng phải cao. Quả thật tinh thẩn của người tù đã cao hơn núi cao. Chính Bác đã tự chứng thực cho mình, bằng con người mình. Một sự thể nghiệm lặng lẽ mà kiên trì, đúng là "Kiên trì và nhẫn nại - Không chịu lùi một phân". Chính vì không chịu lùi, dù chỉ một phân, nên Người đã chiến thắng. Như ta biết, trong thơ Hồ Chí Minh ít sử dụng cách nói đại ngôn, tránh cách nói ồn ào. Ấy thế mà bao nhiêu suy nghĩ tinh kết lại từ cách sống của một nhà hiền triết có tầm nhìn rộng, sâu trên nhiều mặt về con người, về cả bản thân. "Tất cả những gì thuộc về con người đều không xa lạ với tôi", một bậc hiền giả, triết nhân nói thế. Bác cũng làm như thế, đã chứng minh cho chân lí đó bàng một bài thơ nhỏ, một nhật kí đi đường.
0
0
The Future In Study ...
08/05/2017 21:00:45
Phân tích bài đi đường :
Đi đường là một hành động thường xuyên của bất kỳ một con người bình thường nào trên thế gian này. Nhưng đối với các nhà thơ, nhà văn lớn, các bậc hiền triết vĩ nhân, đi đường còn là cơ hội để tìm ra những chân lý, đạo lý lớn của cuộc đời. Năm 744, Lý Bạch (701 – 762), một nhà thơ lãng mạn cổ điển Trung Hoa thời Đường, quyết không chịu "khom lưng cúi mày phụng sự bọn quyền quý" đã đi trên con đường trắc trỏ' khó khăn ngay sau khi rời khỏi cung đình và trước lúc rời khỏi kinh đô Trường An mà vẫn tràn đầy khí phách, hoài bão lớn lao. Còn năm 1942-1943, Hồ Chí Minh đi đường trong cảnh "tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang xiềng xích, có sáu người lính mang súng giải đi (…) dầm mưa dãi nắng, trèo núi qua sông…" nhưng vẫn ung dung đề thơ:

TẨU LỘ

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,
Trùng san chi ngoại hựu trùng san.
Trùng san đăng đáo caophong hậu,
Vạn lý dư đồ cố miện gian.
' '(Nhật ký trong tù)

Dịch nghĩa:
Có đi đường mới biết đường đi khó,
Hết lớp núi này lại tiếp đến lớp núi khác.
Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót,
Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt.

Dịch thớ:

ĐI ĐƯỜNG
Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lèn đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
(Nam Trân dịch)

Bài thơ trên được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, được Nam Trân dịch sang thể thơ lục bát. Vì vậy, khi tìm hiểu bài thơ, chúng ta cần đối chiếu cả bã bản: phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ.

Câu khai đã bắt đầu mở cửa bài thơ:

"Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan"
(Có đi đường mới biết đường đi khó)

Lời thơ như một lời nói, lời nhận xét thật giản dị. Nhưng không phải hiên nhiên Hồ Chí Minh thốt lên như thế. Hồ Chí Minh có cùng ý nghĩ với nhà thơ Lý Bạch cách đây khoảng 1200 năm:

"Đường đi khó! đường đi khó!
Nay ở đâu! đường bao ngả!"
(Đường đi khó)

Cái khó của từng con đường đã là một thách thức lớn. Cái khó của việc chọn con đường còn khó hơn nữa. Đường có biết bao nhiêu ngả nhưng mình ở đâu, mình chọn ngả nào bầy giờ. Đó mới là cái khó hàng đầu.

Ngoài những cái khó như Lý Bạch, Hồ Chí Minh còn gặp cái khó khác khi đi đường: "Mỗi buổi sáng, gà gáy đều, người ta giải cụ Hồ đi. Mỗi buổi chiều khi chim về tổ, người ta dừng lại trong một địa phương nào đó, giam Cụ vào trong xà lim trên một đống rạ bẩn, không cởi trói cho cụ ngủ". Cụ Hồ tiếp tục đi, bị trói và bị xích như

thế trong hơn 80 ngày. Cụ đã trải qua gần 30 nhà tù xã và huyện, cuối cùng cụ đến Quế Lâm. Từ Quế Lâm người ta giải cụ đi Liễu Châu, giam trong nhà giam quân sự. (theo Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch). Có thể nói rằng, câu khai còn là một vấn đề chân lý được Hồ Chí Minh rút ra trong thực tế "đi đường", nằm ngoài tầng nghĩa đen: đi đường.

Câu thừa nối tiếp mạch chảy của bài thơ và nâng cao phát triển ý của câu khai:

"Trùng san chi ngoại hựu trùng san".
(Hết lớp núi này, lại tiếp đến lớp núi khác)

Phép điệp trùng san (lớp núi) đã miêu tả nỗi vất vả hiểm nguy của việc đi đường càng lúc càng chồng chất. Ở câu thừa này, bản dịch thơ: "Núi cao rồi lại núi cao trập trùng" chưa thể hiện đúng ý nghĩa của nguyên tác: "lớp núi" chứ không phải "núi cao". Mặc dù gặp nhiều khó khăn như vậy nhưng người chiến sĩ cách mạng kiên cường ấy không hề thốt lên một lời than vãn nào. Trái Lại phép điệp "trùng san" đã làm tăng thêm sức mạnh, sức bật cho bài thơ.

Câu chuyển:
"Trùng san đăng đáo cao phong hậu".
(Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót)

đã làm cho bài thơ thêm dạt dào xúc cảm, đồng thời thể hiên một ý chí bền bỉ không hề khuất phục trước hoàn cảnh khó khăn. Ý thơ này gợi cho chúng ta nhớ đến câu nói bất hủ của Disraeli: "Con người đâu có phải là sự tạo nên của hoàn cảnh, hoàn cảnh là sự tạo nên của con người".

Vì Hồ Chí Minh là bậc "đại nhân, đại trí, đại dũng" nên bất kỳ hoàn cảnh khắc nghiệt nào Người cũng giành phần thắng lợi:

"Vạn lý dư đồ cố miện gian"
(Thì muôn dặm nước non thu cả vào tầm mắt)

Sau một chặng đường dài mòn mỏi cả đôi chân, Người đã về đến đích. Một bức tranh thiên nhiên mênh mông, tươi- đẹp chốn núi non bát ngát, hùng vĩ được thu gọn trong tầm mắt Người. Ớ câu hợp này, thiên nhiên lớn lao hay tâm hồn Bác lớn lao? Chính ý chí, nghị lực và lý tưởng cao vời của Người đã làm rung động-nàng chục triệu con

tim. Bổi vậy khi viết "Lời tựa" bản dịch Nhật ký trong tù ra tiếng Tây Ban Nha, Félix Pita Rodriguez đã hết lời khen ngợi: "Đi vào Nhật ký trong tù, cái toà nhà bằng ngôn ngữ vững chắc và đẹp, người ta có cảm giác mỗi bước đi đều chạm vào gốc rễ sâu xa của một trong những con người kỳ diệu ít có, những con người như những tảng đả lớn làm nền cho nhăn loại, những con người qua cuộc đời mình đã dạy cho mọi người hiểu rằng dôi với con người, không có đỉnh cao nào là không thể đạt tới".

Có thể nói rằng, bài thơ Đi đường của Hồ Chí Minh có hai tầng nghĩa: nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Tầng nghĩa tường minh như nguyên văn bài thơ. Tầng nghĩa hàm ẩn chất chứa sau câu chữ của bài thơ, muốn nói đến con đường cách mạng gian khổ, lắm chông gai và lực cản. Do đó, con người cần phải bền lòng, vững chí, cần lao chiến thắng bản thân để’ tiến tới thành công.

Tóm lại, bài thơ Đi đường được Bác viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật chỉ vỏn vẹn có 28 chữ nhưng ý nghĩa triết lý, ý nghĩa nhân sinh của bài thơ toát lên rất sâu xa. Mặt khác, qua bài thơ, chúng ta còn thấy được "một hình mẫu cao đẹp của con người mới trong thời đại mới,…, một tấm gương tuyệt vời về người cộng sản".

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×