LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ "Tràng Giang" (Huy Cận)

3 trả lời
Hỏi chi tiết
561
1
0
Phương Như
01/03/2019 10:23:48
Khác với hồn thơ sôi nổi, nhiệt huyết gắn với công cuộc đổi mới sau cách mạng tháng 8. Thơ Huy Cận những năm trước cách mạng lại mang nét u sầu, buồn bã trước thời cuộc. Chẳng thế mà "Tràng giang" ra đời lại khắc họa nét cô đơn của cá thể trước không gian bao la của thiên nhiên. Cùng với nét u buồn khắc khoải trước không gian mênh mông, bài thơ còn là nỗi nhớ quê hương, thương đất nước đang chìm trong tang thương của thi sĩ.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Cũng chính tập thơ này đã đưa ông trở thành gương mặt tiêu biểu của phong trào "Thơ mới" thời kì đầu.
Ngay khi đọc tên bài thơ "Tràng giang" người ta có thể hình dung được tư tưởng và tâm tư mà tác giả gửi trong đó. Tiêu đề gợi ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.
Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Câu thứ nhất miêu tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu như câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong đuổi mãi về cuối trời. Trong câu thứ nhất "sóng gợn" là những vòng sóng nhỏ, lăn tăn. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận. Hai câu thơ kết hợp làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Tác giả tiếp tục khắc họa nỗi chia li qua câu thơ thứ ba. "Thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau nhưng qua con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. "Sầu trăm ngả", nỗi buồn, sự u hoài, buồn bã càng ngày càng dâng lên. Với câu thơ thứ tư tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "củi một cành khô" để nói về sự cô đơn, trơ trọi của "củi". Số từ "một" chỉ một mình, cô đơn cùng với tính từ "khô" - hết nhựa sống, càng làm cho hình ảnh khô héo hơn. Tác giả thật tài tình khi đã sử dụng nghệ thuật đối "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. "Lạc mấy dòng" không chỉ diễn tả nỗi niềm cô đơn của củi mà còn nói đến sự bấp bênh, trôi nổi khi "lạc" hết dòng sông này đến dòng sông khác. Nét độc đáo của câu thơ không chỉ là phép đối mà còn ở cách ngắt nhịp 1/3/3. Với cách ngắt nhịp ấy "củi" xuất hiện "độc lập" và điều đó càng làm rõ hơn tình cảnh lẻ loi của sự vật này. Có thể nói, hình ảnh " củi một cành khô" đã phần nào nói lên tâm trạng thi sĩ - một con người tài hoa nhưng vẫn đang loay hoay giữa cuộc sống bộn bề. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên bức tranh thiên nhiên buồn, sầu thảm đã hiện rõ. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại cũng phần nào giúp người đọc rõ hơn về tâm trạng của thi sĩ.
Khổ thơ thứ hai tiếp tục là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu, thiếu sức sống.
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
Huy Cận thật khéo léo khi sử dụng hai từ láy trong cùng một câu thơ để miêu tả cảnh hoang vu, vắng vẻ hai bên bờ sông: "Lơ thơ" - thưa thớt, ít ỏi, " đìu hiu" - vắng lặng, ít người. Trên "cồn nhỏ" làn gió phảng phất không khí buồn, ảm đạm của chốn ít người, thiếu sức sống. Nó u sầu đến nỗi không nghe thấy tiếng ồn ào của phiên chợ chiều. "Đâu" diễn tả cảm giác mơ hồ, không xác định được điểm tựa để bám víu. Như vậy, chỉ qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê thê lương, thiếu sức sống. Đến với hai câu thơ tiếp, dường như tác giả mở rộng tầm nhìn ra qua biện pháp đối "nắng xuống" - "trời lên" đã làm không gian mở rộng về chiều cao, có một khoảng không gian đang giãn nở ra ở giữa. Hai động từ ngược hướng "lên" và "xuống" mang lại cảm giác chuyển động. Nắng càng xuống thì bầu trời càng được kéo cao hơn. Và điểm nhấn chính là "sâu chót vót" - không gian mở rộng cả về chiều sâu. "Chót vót" vốn là từ láy độc quyền khi nhắc đến chiều cao. Còn đã nói tới sâu thì người ta hay dùng "sâu hun hút" hoặc " sâu thăm thẳm",...Chính cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận đã gợi ra khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, đó cũng là lúc nỗi buồn, cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị, mới mẻ. Câu thơ cuối cùng thi sĩ dùng không gian rộng để nói về nỗi cô đơn, vắng vẻ. "Bến cô liêu" - buồn, thưa thớt trơ trọi giữa không gian rộng lớn của sông, trời. Toàn cảnh khổ hai là một màu cô đơn, vắng vẻ, đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ.
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Hình ảnh trong khổ thơ thứ ba đã bước đầu có chuyển động với động từ "dạt", nhưng sự vật đi kèm với động từ này là "bèo". "Bèo" vốn là hình ảnh tượng trưng cho sự bấp bênh, chìm nổi, không có nơi ở ổn định. Đã thế cụm từ "hàng nối hàng" càng diễn tả sự vô định, chông chênh khi hàng này đến hàng khác "nối đuôi" nhau. Không gian đối lập với thực tại của cảnh vật. Tác giả mong ngóng có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống. Nhưng đáp lại sự mong chờ ấy là "không một chuyến đò ngang". Ở khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định: "không đò" và giờ tiếp đến là "không cầu". Hình ảnh chiếc cầu gợi lên dáng vẻ miền quê, mang nỗi niềm "thân mật". Nhưng vì hình ảnh này không có nên thành ra cảm giác xa lạ, cô đơn được cảm nhận rõ. Với câu thơ cuối của khổ tác giả sử dụng nhiều màu sắc để chấm phá cho bức tranh. "Bờ xanh tiếp bãi vàng" - sắc tranh tươi sáng, nổi bật nhưng đi kèm với từ láy "lặng lẽ" làm chìm màu sắc này xuống. Giờ đây hai hình ảnh này không còn được tươi tắn như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này cũng làm cho không khí đìu hiu "lây lan" từ vật này sang vật khác. Tất cả sự vật đều nhấn chìm trong cô độc.
Nếu như ba khổ thơ đầu tiên là bức tranh thiên nhiên buồn, vắng lặng thì khổ thơ cuối cùng chính là tâm tư, tấm lòng của thi sĩ
"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."
Xuyên suốt bài thơ tác giả liên tục sử dụng thủ pháp nghệ thuật là từ láy. "Lớp lớp" - chồng chất lên nhau, "đùn" là đè lên làm cho một vật gì đó hạ thấp xuống. Như vậy, với câu thơ đầu khổ bốn tác giả lại vẽ tiếp bức tranh quê hương với hình ảnh rộng lớn nhiều lớp mây đè lên núi bạc. Hình ảnh "chim nghiêng cánh nhỏ" gợi cảm giác nhỏ bé, bơ vơ. "Nghiêng" - không vững vàng. Hình ảnh này đối lập với vế ở sau "bóng chiều sa". Trên nền bóng chiều rộng lớn là hình ảnh cánh chim nhỏ lo âu, còn đang mơ hồ cho con đường tìm nơi trú của mình. Hình ảnh cánh chim này đã từng bắt gặp trong "Quyện điểu quy lân tầm túc thụ" (Mộ - Hồ Chí Minh), tạm dịch "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ". Đến với câu thơ thứ ba tác giả đã nói lên nỗi lòng nhớ quê của mình. "Dợn dợn" là gợi lên, dấy lên, có nỗi niềm khó nói. Cứ mỗi khi nhìn thấy "con nước" là lòng yêu quê hương của tác giả lại dâng lên. Tuy nhiên, nét đặc sắc lại nằm ở câu thơ cuối cùng: "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà". Hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng từng chạnh lòng nhớ quê mà thốt lên rằng:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu."
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
Nỗi buồn của hai thi sĩ có một số điểm khác nhau. Ở Thôi Hiệu do nhìn thấy khói sóng trên dòng sông nên buồn và nhớ về quê nhà, còn ở Huy Cận không nhìn thấy khói nhưng nỗi nhớ nhà vẫn dâng lên da diết. Nếu như Thôi Hiệu nhớ nhà là do đang xa xứ, đang ở xứ người còn nỗi nhớ của Huy Cận xuất phát từ một người đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng bơ vơ, lạc lõng. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ trước thời cuộc.
Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,...cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.
Với "Tràng giang", Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Quỳnh Anh Đỗ
01/03/2019 10:36:29
Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận (1919-2005), là một trong những nhà thơ lớn tiêu biểu của Văn học Việt Nam hiện đại. Huy Cận yêu thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp nên thơ Huy Cận có vẻ đẹp hài hòa của yếu tố cổ điển và hiện đại. Thơ Huy Cận hàm xúc, giàu chất suy tưởng và triết lí thâm sâu. Tràng Giang là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện sắc nét bút pháp nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Và Tràng Giang “Tràng giang đã nối tiếp mạch thi cảm truyền thống với sự cách tân đích thực
Mạch cảm thi cảm truyền thống là tức nguồn cảm hứng của văn học truyền thống thường thiên về những nỗi buồn. Những bài thơ ca luôn ẩn chứa nội dung tâm trạng của thi nhân. Đó là nỗi buồn thái thế nhân tình, buồn về sự nhỏ bé của con người trước thiên nhiên hùng vĩ rợn ngợp – “ nỗi sầu vũ trụ “, là nỗi buồn xa cách tình thân tình nhân, sự chia lìa tình cảm lứa đôi… Thi nhân xưa đã đem những nỗi sầu đó khoác áo cho cảnh vật xung quang mà đưa vào thơ ca vẻ đẹp lãng mạng mà buồn. Giống như Nguyễn Du đã từng viết rằng “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” , nỗi buồn đã lan tỏa không gian, từ đáy mắt con người mà nhìn đâu cũng thấy sự vật chung một tâm trạng, chung một nhịp đập con tim được lấp đầy bằng những sầu bi, buồn bã. Còn sự cách tân được nhắc đến trong nhận xét về bài thơ Tràng Giang chính là sự đổi mới trong nền thơ ca Việt Nam, nhất là phong trào Thơ mới 1930-1945. Sự đổi mới ấy thể hiện trong cả hồn thơ lẫn phương thức biểu đạt ý thơ. Tràng Giang là bài thơ vừa mang nét buồn truyền thống thơ ca nhưng cũng lại đầy mới mẻ cách tân dưới ngòi bút tài năng của Huy Cận.
Tràng Giang được Huy Cận viết vào mùa thu 1939 in trong tập thơ Lửa thiêng – tập thơ đầu tay của thi nhân. Bao trùm lên bài thơ là một mạch cảm xúc buồn, từng câu từng chữ , từng khổ thơ đêu ngấm lấy cái vị buồn, cô đơn trước thiên nhiên vũ trụ rộng lớn mà con người lại nhỏ bé, lòng ngổn ngang tâm trạng. Nhan đề bài thơ Tràng Giang gợi ra một ấn tượng khái quát và trang trọng cổ điển lại vừa thân mật, việc sử dụng từ Hán – Việt để đặt tên nhan đề đã cho ta thấy sự hài hòa cổ điển và hiện đại trong thơ mới. Bài thơ được gợi tứ từ dòng sông Hồng nhưng lại được đặt tên là Tràng Giang chắc hẳn đọc giả đã chú ý đến. Mặc dù là sông Hồng gợi tứ nhưng không gian cảnh tượng được Huy Cận miêu tả trong bài thơ lại vô cùng khái quát rộng. Bài thơ gợi lên mọi con sông khắp miền đất nước chứ không riêng gì dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa đi vào thơ ca bấy lâu. Ngoài ra có những ý kiến cho rằng sao nhà thơ lại không đặt nhan đề là Trường Giang ( con sông dài, sông lớn cũng bằng nghĩa với Tràng Giang). Đó là bởi vì nhà thơ sợ sẽ nhầm lẫn với tên của con sông nổi tiếng của Trung Quốc – sông Trường Giang. Tràng Giang là hai từ láy vần “ ang”gợi âm hưởng dài rộng lan tỏa, ngân vang trong lòng đọc giả, nó ánh lên vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại.
Mở đầu bài thơ là câu đề tự “ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” Huy Cận viết đã định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thó. Đó là niềm bang khuâng, là nỗi buồn sầu lan tỏa không gian rộng lớn đa chiều, nhẹ nhàng mà sâu lắng trước cảnh sông dài trời rộng. Hay đây chính là nỗi buồn bang khuâng của chàng thanh niên thời thơ mới – Huy Cận.
Đọc bài thơ, ngay từ khổ thơ đầu tiên Huy Cận đã mở ra trước mắt độc giả cảnh sông nước mênh mông bất tận:
“ Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”
Cảnh và tình người được thể hiện một cách đăng đối nhau song song trong từng câu thơ. Con song trên mặt nước sông Tràng Giang gờn gợn nhẹ nhàng không dứt cũng như nỗi buồn của con người cứ dào dạt đến hết đợt này lại đợt khác. Một nỗi buồn “ điệp điệp “ day dứt lòng người. Còn con thuyền trên sông, nó không phải được chèo lái mà là “ xuôi mái “ tự mình thả trôi theo dòng nước gợi lên sự lênh đênh trôi dạt phó mặc cho dòng nước chảy. Hình ảnh con thuyền đó gợi lên kiếp người nhỏ bé đơn côi với cuộc đời vô định của mình. Giữa Tràng Giang điểm nhìn của tác giả hướng vào con sóng nhỏ gợn trên mặt nước. Sóng tuy rất nhiều nhưng chúng hiện ra rồi lại tan biến vào hư vô mãi mãi như thời gian trôi qua không lấy lại được. Thuyền và nước , chúng chỉ song song nhau thôi chứ không phải gắn bó lâu dài đi cùng nhau hết đoạn đường sông dài vô tận. Bởi vì nước xuôi tram ngả thuyền biết theo lối nào. Thuyền – nước như hai đường thẳng song song phân cách nhau không bao giờ có điểm chung mà gặp gỡ, điều này dễ khiến ta liên tưởng đến cảnh chia ly , biệt ly giữa thuyền và con nước chảy bên dưới.
“ Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Huy Cận đã mượn hình ảnh con thuyền cô độc một mình thả trôi trên sông để bộc lộ sự lạc lõng cô đơn, đó đã là một cách sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sâu sắc thế nhưng đọc đến câu thơ “Củi một cành khô lạc mấy dòng “ ta mới tận hưởng rõ nét cái tài, cái hay trong thơ của ông. Như nỗi buồn sầu cô đơn ngày càng ăn sâu vào tâm trí nhà thơ mà cái đơn độc nay còn được nhấn mạnh hơn ở sự nhỏ bé giảm dần của sự vật được đưa vào bài thơ. Giữa một dòng sông rộng lớn duy chỉ có con thuyền thôi đã thấy nhỏ nhoi, lạc loài giữa chốn sông nước, nay chỉ có độc một cành củi khô thì nghe sao thật bé nhỏ đến đáng thương. Cách viết “ củi một cành khô” gây ấn tượng cho đọc giả bởi phép đảo danh từ lên trước số từ; cành củi ở đây là hình ảnh chân thực vô cùng, nó bập bềnh nương theo dòng nước trôi và nó cũng là hình ảnh tượng trưng cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng cô đơn , vô định. Qua đây ta thấy rõ sự sáng tạo hiện đại trong câu thơ có cành củi khô của Huy Cận. Chẳng phải chỉ tùng, cúc, trúc, mai – những loài cây , loài hoa tượng trưng cho phẩm chất khí khái anh hùng mới xứng đáng được đi vào thơ ca mà ngay ở đây cành củi khô thôi trong Thơ mới đã gợi lên bao ý tứ đẹp dưới ngòi thơ tài hoa của Huy Cận. Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ là nỗi sầu thấm đẫm không gian, còn vẻ đẹp hiện đạu là ở những chi tiết thật : cành củi khô quen thuộc, là sự thiếu gắn bó, chia lìa của tâm hồn nhà thơ khi ngắm cảnh sông Hồng.
“ Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. “
Khổ thơ II lại tiếp tục mạch tình và ý của khổ I . Mặt khác khổ thơ II có thêm những nét sáng tạo mới. Câu thơ đầu là một nét vẽ mền mại, uốn lượn, nhịp nhàng bởi các vần lưng liên tiếp “ lơ thơ” , “ nhỏ”, “đìu hiu”. Vẫn tiếp tục khung cảnh rộng lớn còn sự vật nhỏ bé, đơn cô, cồn nhỏ thấp thoáng lơ thơ ấy, Huy Cận càng ngày càng dẫn dắt ta vào hoài niệm nỗi buồn khi ấy của nhà thơ. Từ “ đìu hiu” gợi sự cô đơn, lạnh vắng và hiu hắt. Từ này theo nhà thơ Huy Cận thì ông đã “ học” từ trong “ Chinh phụ ngâm khúc” : “ Bến phì gió thổi đìu hiu mấy đò”. Huy Cận đã biết học hỏi những giá trị thơ ca nhân văn từ những tác giả đi trước để góp phần tô điểm thêm cho đứa con tinh thần của mình ngày càng xinh đẹp, thu hút đọc giả yêu thích thơ ông. Từ “ đâu “ trong câu thơ “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều “ có hai nét nghĩa hiểu. Có thể hiểu theo nét nghĩa thứ nhất là ở đâu, đâu đó quanh đây vùng sông nước rộng lớn này vọng đến tai nhà thơ tiếng người buôn bán, cười đùa khi vãn chợ. Hay nét nghĩa thứ hai là từ “đâu” mang hàm ý phủ định sự tồn tại của con người nơi đây hoang mắng đìu hiu gió thổi như thế này. Nhưng dù hiểu theo nét nghĩa nào thì cảnh vật cùng chỉ tang thêm sự vắng lặng , tĩnh mịch. Bởi nếu có tiếng người thật thì nó lại là “làng xa” vọng tới, cách xa nơi chỉ có sông nước mênh mông bát ngát- nơi tác giả đang đứng ngắm nhìn dòng sông Hồng. Còn không có con người sinh sống tức càng làm tăng thêm sự thiếu thốn sự sống nơi đây. Tóm lại tồn tại trong mắt nhà thơ lúc này chỉ có cảnh và cảnh vật. Đồng thời câu thơ còn ngầm biểu thị ý mong mỏi của nhà thơ đang kiếm tìm dấu hiệu sự sống, hơi ấm tình người. Thế nhưng càng tìm, tìm mãi nhà thơ chỉ càng thấy cô đơn, buồn sầu. Câu thơ 3, 4 của khổ II đã mở ra không gian đa chiều được nối bằng các động từ, tính từ đầy sáng tạo và ngược hướng : “xuống” , “lên”, “sâu chót vót”, “dài”, “rộng”. Ánh nắng mặt trời từ trên cao rọi xuống mặt nước, tác giả đứng trên đê , lưng chừng giữa trời – sông. Ở vị trí quan sát như thế nhà thơ nhìn từ cao xuống dưới sông đang phản chiếu lại một bầu trời bản sao y hệt nền trời trên đỉnh đầu. Không gian được rộng mở ra từ đó. Đặc biệt cụm từ “sâu chót vót” là một cách viết đầy nghệ thuật mới lạ không chỉ vì nó ngược với lẽ thường tình là “cao chót vót” mà còn xuất phát từ thực tế điểm nhìn của nhà thơ. Kết thúc khổ thơ II là câu thơ “Sông dài trời rộng bến cô liêu”, câu thơ không tả cụ thể bến nào , chỉ thấy rằng nó cũng mang trạng thái đơn độc một mình. Bến vắng khách không một ai qua cả. Trên trời thì gió đìu hiu, bên dưới lại bến cô liêu nỗi buồn thêm lan tỏa sâu sắc trong từng cách gieo vần thơ, ghép cặp hô ứng đầu cuối khổ thơ.
Sang tiếp khổ thơ III của bài thơ không chỉ đơn thuần là cái buồn tẻ của cảnh vật bao trùm nữa mà sâu sắc hơn ả chính là buồn về kiếp người được bộc lộ rõ nét. Hình ảnh bèo trôi dạt vốn là chi tiết lấy từ cảnh thật trên dòng sông Hồng nhưng khi đặt thành câu hỏi “dạt về đâu” thì lại có ý biểu tượng cho những kiếp người trôi nổi, bấp bênh, vô định. Đọc đến đây, phát hiện ra hình ảnh bèo thân thuộc ta nhớ đến câu hát quan họ cổ truyền cứ ngân vang trong lòng “ Bèo dạt mây trôi chốn xa xôi…” . Lại một lần nữa nhà thơ lại nhắc đến quang cảnh trời nước mênh mông mà vắng vẻ, buồn hiu hắt không một chuyến đò ngang – “ Mênh mông không một chuyến đò ngang” . Trong thơ thường tả đến những sự vật hiện tượng có nhưng Huy Cận lại phá cách tả cái không có, đó là không một chuyến đò thực xuất hiện bên dòng sông rộng lớn. Tả cái không có là ngụ ý của nhà thơ rằng muốn nhấn mạnh cái không có, như vậy làm rõ thêm tâm tình khao khát tìm kiếm tình người, sự thân mật thân tình yêu giữa người với người. Có lẽ nhà thơ vẫn đang không ngừng đưa mắt kiếm tìm bóng hình con người hay chỉ chút âm thanh quen thuộc người nói chuyện qua thôi chắc cũng đủ làm Huy Cận thấy ấm lòng biết bao khi ở giữa chốn thiên nhiên hùng vĩ lấn át làm con người choáng ngợp, thu mình lại. Thế nhưng điều nhà thơ mong mỏi lại không thành hiện thực khi ông nhận thấy rằng đò thuyền không có mà hóa ra nhịp cầu bắc ngang nối giữa hai bờ sông cũng chẳng thấy đâu. Như một rào càng vô hình mà xa cách khiến lòng nhà thơ càng thêm trống trải cũng lại càng thêm chờ đợi trông mong, liệu phép màu có xảy ra đưa tình người thân mật đến với nhau một cách tự nhiên chân thành nhất? Đồng thời ta cũng nhận thấy nỗi sầu của nhà thơ lại gắn liền với nỗi buồn nhân thế, buồn quê hương đất nước được thể hiện vô cùng kín đáo.
Tràng Giang là một bài thơ tuyệt bút của Huy Cận có nhận xét rằng mỗi khổ thơ đều có thể tách riêng thành một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt. Đúng như vậy bởi bao trùm bài thơ là nỗi sầu cô đơn trước vũ trụ rộng lớn bao la và niềm khao khát kiếm tìm yêu thương, tình người cùng với những hình ảnh thơ giản dị quen thuộc mang nét truyền thống nhân dân người Việt. Và khổ thơ IV – tức khổ cuối, chính là phần đặc sắc nhất của cả bài thơ, là bài thơ tứ tuyệt nhỏ mang sự hài hòa cổ điển và hiện đại sâu sắc nhất.
“ Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
Hai câu thơ đầu của khổ thơ là miêu tả cảnh trời cao cùng lớp lớp mây trắng đùn ra như những núi bạc thật đẹp và hùng vĩ. Chữ “đùn” trong câu thơ gợi nhớ đến một câu thơ khác của Nguyễn Trãi cũng sử dụng rất thành công từ đó “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Và không chỉ đây là lần đầu tiên Huy Cận sử dụng từ “đùn” trong các sáng tác của mình, trong một bài thơ khác hiệu ứng của từ “đùn” cũng đã được nhà thơ sử dung một cách sáng tạo” Bóng tối đùn ra trận gió đen”. Hình ảnh cánh chim nhỏ choa nghiêng mình hết sức sinh động và đẹp lạ kì. Cánh chim bé nhỏ ấy được miêu tả như đang gánh vác trên lưng mình cả một “bóng chiều sa”. Bởi cánh chim rất nhỏ mà lại nghiêng nên ta có cảm giác nó thật sự rất nhỏ bé đối lập hoàn toàn vơi cảnh thiên nhiên rộng lớn hùng vĩ, choáng ngợp nên đã tôn lên vẻ đẹp cho cả hai. Hai cuối là tác giả đã diễn tả trực tiếp bộc bạch tâm trạng của mình. Đó là nỗi nhớ quê cứ dâng lên theo từng con sóng. Điệp từ “dờn dợn” là sự tăng tiến cấp độ ý nghĩa nhịp nhanh, tăng cao của sóng lòng. Nếu ở khổ thơ đầu là “sóng gợn”-nghiêng về tả cảnh thật thì nay khổ cuối ý thơ lại là như một phép nhân hóa giữa sóng sông và con sóng lòng trào dâng của Huy Cận. Câu thơ cuối cũng chính là câu thơ then chốt bày rõ ràng ý thơ gửi gắm trong bài, đó là nỗi nhớ thương quê nhà da diết, nồng thắm. Và nó gợi ta nhớ đến một câu thơ khác của nhà thơ Thôi Hiệu:
“ Nhật mợ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sứ nhân sầu?”
Nhà thơ Thôi Hiệu khi xưa đi xứ xa quê nhìn thấy khói bếp tỏa lên, sóng trên sông mà nhớ nhà. Còn Huy Cận chẳng cần phải có khói mới nhớ đến quê hương mà ngay trong tiềm thức của nhà thơ quê hương đã luôn thường trực nay gặp cảnh buồn thì niềm nhung nhớ ấy càng thêm sâu đậm. Hai nhà thơ ,, hai thế hệ khác nhau, hai thời đại nhưng cùng có một điểm chung là nỗi nhớ quê hòa quyện cùng yêu thiên nhiên , đất nước thắm thiết nồng nàn.
Tràng Giang-một bài thơ mới mang vẻ đẹp cổ điển. Sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại là đặc sắc nghệ thuật bao trùm bài thơ, nỗi sầu cô đơn của cái tôi cá nhân trước cảnh thiên nhiên, vũ trụ thấm đượm tình người, tình đời và lòng yêu quê hương đất nước tha thiết thầm kín là chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Đúng như Xuân Diệu nhận xét về “Tràng Giang” : “Bài thơ dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước”. Một lần nữa ta lại phải phục cái tài thơ văn của Huy Cận, ông khéo léo dùng thể thơ thất ngôn khiến cho bốn khổ thơ như bốn bức tứ bình tròn vẹn, hoàn hảo, sử dụng rất nhiều từ Hán – Việt, nhiều thi liệu truyền thống và phong thơ mang dáng dấp Đường thi ở sự hàm súc, cô đọng , tao nhã. Và không thể không nhắc đến yếu tố hiện đại sáng tạo trong bài thơ, đó là nỗi buồn sầu nhưng lại bang khuâng , mang mác-nỗi sầu của thời đại, cảnh vật thơ giản dị, thân quen. Qua bài thơ “ Tràng Giang” Huy Cận còn muốn thể hiện cái tôi cô đơn trước vũ trụ, kín đáo bày tỏ lòng yêu quê hương đất nồng thắm.
1
0
doan man
01/03/2019 13:58:27
​Trước Cách mạng tháng Tám, thiên nhiên trong thơ Huy Cận thường thấm đượm nỗi buồn - nỗi buồn tiêu biểu cho cả một thế hệ Thơ mới. Bài thơ Tràng giang (1939 - trích từ tập Lửa thiêng) thể hiện cái tôi buồn miên man của nhà thơ trước cảnh trời rộng, sông dài; nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Bài thơ còn thể hiện tình yêu đất nước thầm kín của nhà thơ

Tràng giang nghĩa là sông dài, từ tràng cũng đọc là trường. Nhưng từ tràng giang với âm hưởng mênh mang của nó, gợi cảnh bao la, bát ngát hơn (tràng giang đại hải). Tác giả dùng từ Hán - Việt đã tạo ra vẻ cổ kính, vĩnh viễn của dòng sông.

Mở đầu bài thơ là cảnh sông nước:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Câu thơ đầu gợi tả cảnh dòng sông mênh mang, những con sóng gợn lô nhô gối nhau tới chân trời tạo cảm giác êm ả trong không gian quạnh vắng như chứa đựng sẵn nỗi buồn: buồn điệp điệp. Nỗi buồn lớp lớp nối nhau tỏa theo con nước đi về trăm ngả: sầu trăm ngả. Cảnh tràng giang trong bài thơ mang một màu cổ kính;

Xanh om cổ thụ tròn xoe tán.

Trắng xóa tràng giang phẳng lặng lờ.

(Thuyền đi)

Hình ảnh bổ sung cho con thuyền là cành củi khô chìm nổi lênh đênh giữa cảnh bát ngát của dòng sông:

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Từ rừng thẳm, cành củi qua bao sông suối mà trôi về đây, dập dờn giữa chốn sông nước bao la, gợi liên tưởng đến cảnh đời lạc loài, bơ vơ. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng bị dòng đời cuốn trôi không biết về đâu.

Khổ thơ gợi tả cảnh với không gian sông nước mênh mông với những đường nét: song song, điệp điệp, nhưng lại: sầu trăm ngả, lạc mấy dòng nên không hứa hẹn gì hội tụ, gặp gỡ mà chia tan, xa rời. Thủ pháp tương phản giữa hình ảnh dòng sông rộng lớn với cảnh củi khô và chiếc thuyền nhỏ bé, càng làm nổi bật cảnh bát ngát, vô tận của dòng sông và thân phận lẻ loi, bé nhỏ của con người. Âm điệu chung cho cả bài thơ, buồn vì thân phận con người cô đơn, lạc loài trong cuộc đời cũ.

Khổ thơ thứ hai tiếp tục mạch thơ khổ đầu nhưng không gian được mở rộng ra và đẩy lên cao hơn.

Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều,

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Cồn nhỏ đơn côi giữa dòng sông, lại thêm ngọn gió đìu hiu làm cho cảnh càng hoang vu, hiu hắt, chìm khuất. Dòng nước lũ trên thượng nguồn đổ về nhấn chìm cồn nhỏ giữa sông chỉ còn nhô lên vài ngọn cỏ lưa thưa gợi liên tưởng đến những thân phận bị dòng đời nhấn chìm xô dạt. Không gian mở rộng sang bên bờ: cảnh chợ chiều đã vãn càng tô đậm cái vắng vẻ, xa lìa.. Cảnh chợ chiều có gợi đến cuộc sống, quê nhà nhưng chỉ là âm thanh xao xác rồi mất hút dần trong cảnh mênh mang vắng lặng của dòng sông. Dòng sông và. nhà thơ như bị tách ra khỏi cuộc đời nên đứng trong cảnh ấy lòng người càng thêm thương nhớ cuộc sống quê hương.

Bầu trời hiện ra cũng làm tăng thêm vẻ lạc lõng:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót.

Câu thơ giàu hình tượng, gợi tả không gian có hình khối đường nét và màu sắc: từng vạt nắng trên cao rơi xuống tạo nên khoảng không sâu thẳm trên bầu trời, độ sâu của bầu trời như ở ngọn cót vót. Cách dùng từ sâu gợi không gian bầu trời như mở rộng và đẩy lên cao hơn, sâu hơn, tạo ra không gian thăm thẳm, khôn cùng vô biên của vũ trụ và nỗi buồn của nhà thơ dường như vô tận, mênh mông:

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Dòng sông, bến bãi, đến bầu trời đều rời rạc và được khỏa lấp nỗi buồn của nhà thơ, buồn vì thiếu vắng cuộc sống nên mong tìm về với cuộc sống.

Nhưng cảnh càng xuất hiện càng lạc lõng, hờ hững:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyển đò ngang

Không cầu một chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Các sự vật được bên nhau: bèo dạt nối hàng, bờ xanh tiếp bãi vàng nhưng tạo ra một thế giới không liên hệ, chia lìa. Trong khung cảnh ấy hồn thơ muốn tìm đến dấu vết của cuộc sống nhưng tất cả đều mênh mông xa vắng được nhấn mạnh bởi hai lần phủ định:

Mênh mông không một chuyển dò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Không một con đò, không một chiếc cầu tri âm, không có bóng người hay cái gì gợi đến tình người để mà gặp gỡ giao tiếp. Chỉ có mặt nước mênh mông vắng lặng.

Tới ngã ba sóng nước bốn bề,

Nửa chiều gà lạ gáy bên đê

(Em về nhà)

Trong cảnh ấy, tình người càng buồn hơn, buồn vì sự thiếu vắng cuộc sống. Nhà thơ đứng ngay giữa quê hương mình mà cảm thấy bơ vơ, trơ trọi nên càng khao khát gắn bó với con người, cuộc sống, với quê hương:

Thuyền không giao nối đây qua đó

Vạn thuở chờ mong một cánh buồm

(Đảo)

Bài thơ khép lại với cảnh hoàng hôn kì vĩ nơi chân trời xa:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Khung cảnh mở ra với hình ảnh núi bạc được kết tạo bằng mây trắng lấp lánh ánh nắng trời. Tác giả bình: “Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao. Ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp”. Một vẻ đẹp kì thú, ngời sáng, hùng vĩ. Hình ảnh này gợi nhớ đến một ý thơ dịch từ thơ Đường: “Mặt đất mây đùn cửa ải xa” (Đỗ Phủ) nhưng lại có vẻ đẹp rạng rỡ hơn. Một cánh chim chiều xuất hiện làm cho bức tranh them sinh động, thơ mộng, đẹp đẽ nhưng nhỏ bé, mông lung. Cánh chim nhỏ như bị nắng chiều đè xuống, chỉ nghiêng cánh lá bóng chiều đổ xuống làm cho không gian như có hình khối, trọng lượng và thiên nhiên có vẻ như trĩu nặng nỗi buồn của thi nhân. Cảnh mông lung xa vắng ấy càng gợi thêm lòng thương nhớ quê hương:

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Con sóng lòng nhớ quê của nhà thơ đã tỏa ra nhập vào con sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi sóng nước. Con nước cảm thông đã mang tình quê mênh mang đi về mọi nẻo. Ý thơ cuối mượn từ tứ thơ của Thôi Hiệu đời Đường:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

(Hoàng Hạc Lâu)

Người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà, còn Huy Cận không cần khói sóng vẫn nhớ quê hương. Vì mối tình ấy luôn khắc khoải trong lòng. Đó là nguyên nhân chính của nỗi buồn trải dài suốt bài thơ. Một con người buồn nhớ quê hương khi đúng ngay giữa quê hương mình càng thấy bơ vơ tội nghiệp làm sao! Bài thơ kết thúc là cảnh hoàng hôn trên sông nước và mở ra một tình quê bát ngát.

Tóm lại, nỗi buồn sông nước, trời mây trong Tràng giang của Huy Cận cũng là nỗi đau cuộc đời, nỗi sầu nhân thế. Nhà thơ gởi gắm vào đó một tấm lòng tha thiết yêu quê hương đất nước, sự nâng niu đối với tiếng Việt.

Vì vậy, Xuân Diệu đánh giá: “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang san, Tổ quốc”.

Bài thơ thể hiện cái buồn chung của một thời đại trong Thơ mới. Nhưng nỗi buồn toát ra từ cái đẹp của thiên nhiên thiếu liên lạc thiếu tình người chứ không phải cái buồn vì cảnh tù túng ngột ngạt trong Nhớ rừng của Thế Lữ.

Bài thơ mang phong vị cổ điển ở hình ảnh, giọng điệu nhưng vẫn mang nét đặc sắc của thơ hiện đại ở không gian sắc màu, từ ngữ đến tứ thơ.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư