LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích đoạn trích Cha con nghĩa nặng - Cha con nghĩa nặng (Hồ Biểu Chánh)

2 trả lời
Hỏi chi tiết
355
0
0
Trần Bảo Ngọc
07/04/2018 14:13:09

Đề bài: Phân tích đoạn trích Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh

Bài làm 1

   "Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm", chẳng biết câu thơ của nhà thơ Nam Bộ Nguyễn Đình Chiểu có ảnh hưởng trực tiếp tới quan điểm sáng tác của Hồ Biểu Chánh hay không ? Nhưng xét về một mặt nào đó, có thể nói con thuyền văn chương của nhà thơ trung đại và nhà văn hiên đại này đều mang nặng một thứ hàng vốn vô tận và vô giá: đạo lí. Tôi muốn nói cảm hứng bao trùm lên sự nghiệp thơ văn của cả hai tác giả này là cảm hứng đạo lí.

   Bốn năm trước khi Đồ Chiểu mất (1888), Hồ Biểu Chánh đã ra đời. Phải chăng con đường văn chương đạo lí của nhà văn họ Hồ chính là một sự kế tục nào đó tình thần đạo lí của bậc tiền bối kia ? Với một sự nghiệp văn chương đồ sộ - hơn sáu mươi cuốn tiểu thuyết, Hồ Biểu Chánh xứng đáng là một tiểu thuyết gia đã góp phần dựng nên từ buổi sơ khai của thế kỉ XX cái nền móng vững chắc cho tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. Một thế kỉ đã qua đi, trong văn chương Hồ Biểu Chánh, dĩ nhiên có những phần, những phía không chịu được thử thách của thời gian. Song, có những giá trị đã vượt qua tình trạng sơ khai, vẫn có thể làm cảm động lòng người đọc ở thế kỉ XXI này, và hẳn nó cũng chưa chịu dừng lại ở đấy. Bởi vì, dạo lí làm người một khi đã trở thành tâm huyết lớn của cả một đời văn, đã hoá thân thành những hình tượng có sức sống lớn thì nó sẽ đem lại cho văn chương khả năng trường tồn. Ở một phạm vi hẹp hơn, chừng nào văn còn có khả năng làm cảm động con người, chừng ấy nó không cũ.

   Đọc trích đoạn của Cha con nghĩa nặng người đọc đã có được ở đây một sự cảm động như thế.

   Đúng là văn xuôi dã tự làm giàu cho mình bằng cách vay mượn, tận dụng, kế thừa ưu thế của nhiều thể loại khác, cho nên chúng ta thấy có loại văn xuôi giàu chất thơ, có loại đậm chất sử thi, có loại dầy kịch tính, có loại lại khoác thêm cả luận lí, triết học nữa,... Đọc những tác phẩm như thế, người đọc có thể làm giàu cho thị hiếu của chính mình.

   Cha con nghĩa nặng là một câu chuyện đầy kịch tính mà người ta có thể dễ dàng chuyển thể thành một tác phẩm sân khấu. Toàn bộ câu chuyện là một chuỗi kế tiếp những sự kiện có tính chất xung đột, mâu thuẫn. Gia đình Trần Văn Sửu đang êm dềm bỗng nhiên tan nát. Đầu mối là việc ngoại tình của cô vợ lăng loàn, đàng điếm. Chồng phản ứng thì vợ đã không biết điều, lại còn có thái độ hổn hào, láo xược. Tức quá không kiểm chế được, Sửu đã xô vợ. Thật không may, vợ ngã và chết. Vô tình, Sửu thành kẻ giết vợ. Sửu bỗng nhiên thành kẻ phạm pháp và vô đạo. Sửu phải bỏ trốn. Anh ta luôn phải đối mặt với pháp lí và đạo lí. Pháp lí thì có thể trốn khỏi sự truy nã, nhưng đạo lí thì không trốn được tình phụ tử. Muốn được yên thân, anh ta phải trốn tránh. Nhưng muốn được sống đúng đạo của người cha, anh ta phải trỡ về. Lẩn trốn cả đời thì lỗi đạo làm cha. Còn trở về có thể nguy hiểm đến tính mệnh. Ấy là mâu thuẫn giằng xé trong anh ta ở phần trước. Còn đến đây thì đã qua. Anh ta đã trở về, nghĩa là tình phụ tử đã chiến thắng ý thức bảo mạng. Tình phụ tử đã khiến anh ta mạo hiểm trở về. Như vậy, cuộc đấu tranh bên trong anh ta là sự giằng co quyết liệt giữa đạo lí và phản đạo lí, giữa nhân đạo và phi nhân đạo ! Mỗi lần anh ta vượt lên được những tiếng nói ngáng trở, là một lần đạo lí giành chiến thắng.

   Nhưng giờ đây, anh ta đang đối mặt với một tình huống gay go mới, đang bước vào một mâu thuẫn, xung đột mới.

   Mấy năm nay Sửu đi biệt tích. Cả làng xóm và gia đình đều yên trí rằng Sửu đã chết. Trong thời gian đó, hai đứa con của Sửu được sự chăm sóc của ông ngoại, đã lớn lên và khá giả hơn. Hiện thời con gái sắp lấy chồng, con trai cũng đang được mai mối để cưới vợ. Nếu Sửu xuất hiên, mọi chuyên chắc sẽ đổ bể hết.

   Đoạn trích nếu được ví như một màn kịch, thì màn kịch được dàn thành hai lớp kịch chính vừa kế tiếp vừa có phần chồng chéo lên nhau : Cảnh Trần Văn Sửu gặp bố vợ là hương thị Tào và cảnh Trần Văn Sửu gặp con trai là Tí. Mỗi cảnh là một mâu thuẫn nhỏ, cả hai cảnh nằm trong một xung đột lớn. Ở đâu cũng thấy toát lên cái đạo lí làm người, phụ tử tình thâm (cha con nghĩa nặng).

   Phải nói ngay rằng xung đột kịch ở đây là thuộc vể hoàn cảnh chứ không phải là tính cách. Các nhân vật tham gia vào màn kịch này đều là những con người của đạo lí, một người ông chí nghĩa, người cha chí tình và một đứa con chí hiếu. Họ đấu tranh với nhau không phải chiến đấu với những tương phản trong tính cách của cá nhún, mà xét đến cùng là các cá nhân ấy đang đấu tranh với sự nghiệt ngã của hoàn cảnh, của tình huống.

   Trong mối quan hệ với Trần Văn Sửu, hương thị Tào là bố vợ. Dù rằng con rể đã vô tình giết chết con gái mình, nhưng ông không phải là kẻ rối trí hẹp tâm khiến thù hận Trần Văn Sửu. Ông vẫn dành cho Sửu sự cảm thông, thương xót. Có lúc lòng ông có gợn lên thoáng hận nào đó. Ấy là khi ông mắng chửi một câu : "Mầy thiệt là khốn nạn lắm Ị". Nghĩ cho cùng đó là cái phản ứng dễ có ở một người cha bị mất con gái. Song, nó cũng chỉ là thoáng qua. Chi tiết ấy cho thấy Hồ Biểu Chánh hiểu lòng người chứ không chạy theo nhu cầu lí tưởng hoá một chiều để hoàn toàn đơn giản hoá tình cảm vốn phức tạp của con người. Tràn ngập lòng hương thị Tào vẫn là cảm thông. Ông sẵn sàng tha thứ, và đã tha thứ từ lúc nào rồi: "Thôi, chuyện cũ bỏ đi !". Và trước tấm tình đau đớn của con rể, ông đã không cầm lòng được : "Hương thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không nổi, nên ông cũng khóc". Tình huống đặt ra với hương thị Tào là : có nên hay không nên đáp ứng nguyên vọng tha thiết của con rể - muốn được gặp hai con của mình dù chốc lát. Có lẽ không phải là xung đột giữa một bên là sở nguyện của con rể, một bên là hạnh phúc của hai cháu ngoại, mà thực ra là xung đột giữa tình thương nhỏ và tình thương lớn. Sự giằng xé của những tình cảm ấy khiến ông đau khổ. Ông đuổi Sửu đi không phải vì ghét bỏ Sửu mà vì thương, vì sợ Sửu xuất đầu lộ diện sẽ nguy hiểm đến tính mệnh và làm hỏng việc đại sự trăm năm của con Sửu. Cuối cùng tình thương lớn đã thắng. Cái việc đuổi Sửu đi ngay có vẻ như tàn nhẫn nhưng không phải. Nói đúng hơn là tàn nhẫn bề ngoài, vì cực chẳng đã. Còn bên trong là tình cảm sâu sắc gắn với một tầm nhìn xa của một người cha. Ông giục Sửu đi sau khi đã nói rõ điều hơn lẽ thiệt cho con rể. Và đến đấy, xung đột của cảnh thứ nhất đã được giải toả. Sửu phải nén đau khổ để ra đi. Nhưng trong lòng anh đang dâng lên niềm hạnh phúc. Sửu ra đi, không gặp con chính là chấp thuận hi sinh : hi sinh hạnh phúc nhỏ cúa mình (gặp các con) vì hạnh phúc lớn của con cái (để chúng được yên ổn với những cuộc hôn nhân đang hứa hẹn). Tình thương nhỏ đã nhượng bộ cho tình thương lớn. Cảnh thứ nhất đã khép lại với hành vi đầy cảm kích của Sửu trước sự cảm thông và lòng độ lượng của nhạc phụ : Trần Văn Sửu chắp tay xá cha vợ rồi đội nón lên và bươn bả bước ra lộ".

   Nếu dừng lại ở đó không thôi thì Cha con nghĩa nặng mới chỉ hiện ra ở một phía, ấy là cha vợ và con rể. Đấy chưa phải là phần trọng tâm của tình phụ tử mà Cha con nghĩa nặng muốn nói đến. Sau khi Trần Văn Sửu vừa đi khỏi, thằng Tí " ở trong nhà dò cửa chui ra". Điều này càng thấy rõ tính chất chuyển cảnh của sân khấu. Và cảnh thứ hai mở ra.

   Trước, Trần Văn Sửu chỉ muốn sống để được gặp con, giờ anh ta chỉ muốn chết để cho con bình yên. Nếu như ở cảnh trước chỉ nghiêng về đối thoại, thì đến đây "sân khấu" mở rộng hơn, hành động của nhân vật phong phú hơn. Thằng Tí cố đuổi theo để gặp cha ; cha nó lại ngỡ là người làng đuổi bắt, nên con chạy càng gấp, cha chạy càng nhanh. Tình tiết cười ra nước mắt.

   Có lẽ ai cũng thấy điều này : tình cảm của các nhân vật ở đây thật phân minh. Bố vợ đã không vì mất con gái mà oán thù con rể, con không vì cha làm mẹ chết mà oán hận cha. Rồi đến chồng không vì người vợ lăng loàn mà khiến con phải khinh khi, hận thù mẹ. Người đọc rất cảm động trước sự phân minh, rành rẽ ấy. Hãy nghe Trần Văn Sửu nói với con : "Con không nên phiên trách má con. Má con có quấy là quấy với cha, chứ không quấy với con. Mà cha đã quên cái lỗi của má con rồi, sao con còn nhớ làm chi?".

   Tuy nhiên, mâu thuẫn cơ bản ở cảnh thứ hai này chưa phải ở những điều đó. Thằng Tí muốn cha nó quay lại, muốn được sống cùng cha, muốn phụng dưỡng cha. Ấy là lòng hiếu nghĩa. Nhưng nếu làm được như thế thì người cha sẽ bị làng bắt, tính mệnh của cha sẽ nguy và hạnh phúc của nó chắc cũng bị đe doạ. Vậy mâu thuẫn ở đó là mâu thuẫn giữa tình thương cha và hạnh phúc của mình. Sâu xa hơn là mâu thuẫn giữa lòng vị tha và lòng vị kỉ. Thằng Tí đã sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của mình để chăm sóc và che chở cha nó. Về phía Trần Văn Sửu cũng sa vào một mâu thuẫn. Nếu Sửu bỏ đi biệt thì coi như từ nay mất hẳn hai con, nhưng các con lại được hạnh phúc. Còn quay lại thì được sống trong tình phụ tử ít nhiều nhưng vô tình làm tan tành hạnh phúc trăm năm của con. Và người cha cũng quyết chọn con đường hi sinh cái nhu cầu nhỏ của mình để làm tròn cái bổn phận lớn của người cha. Sự lựa chọn đầy tính vị tha của hai cha con dẫn đến mâu thuẫn giữa hai cha con : cha thì nhất quyết đi, con thì nhất quyết không rời cha. Cha nghe theo đứa con không phải vì nghĩ đến hạnh phúc của mình. Ngược lại nghe theo con chẳng qua là dành lòng nhượng bộ con, nghĩa là cũng vì con thôi !... Cuối cùng, tình thương cao cả đã chiến thắng.

   Kịch phản ánh cuộc dời thông qua các xung đột, mâu thuẫn. Cha con nghĩa nặng không phải là tác phẩm kịch, nhưng là một tác phẩm văn xuôi giàu yếu tố kịch. Kịch tính ở đây là vẻ đẹp độc đáo của thiên truyện này. Câu chuyện dựng lên một cảnh ngộ thương tâm của con người trong cuộc đời. Người ta thấy đạo lí làm người là bất diệt. Dù con người có bị đẩy vào những hoàn cảnh nghiệt ngã dến đâu, con người vẫn cứ kiêu hãnh làm người. Với tư tưởng ấy, có thể xem Cha con nghĩa nặng là một khúc khái hoàn ca của đạo lí đã vang lên, đã vọng về từ đầu thế kỉ XX. Và có lẽ nó vẫn còn vang vọng.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Nguyễn Thị Nhài
07/04/2018 11:22:57

Đề bài: Phân tích đoạn trích tác phẩm Cha con nghĩa nặng của Hổ Biếu Chánh đế thấy được tác ghi đã diễn tả thành công tình nghĩa cha con, một trong những tình cảm thiêng liêng cao quý nhất của con người

Bài làm 2

   Văn chương từ xưa đến nay ngợi ca rất nhiều về tình mẫu tử mà rất ít những tác phẩm viết về tình phụ tử. Với những trang viết vô cùng cảm động, nhà tiêu thuyết Hồ Biểu Chánh đã phần nào bổ khuyết vào khoảng trống đó của văn học. Cha con nghĩa nặng đã diễn tả thành công tình nghĩa cha con, một trong những tình cảm thiêng liêng cao quí nhất của con người.

   Hồ Biểu Chánh có một vị trí đặc biệt trong nền văn xuôi quốc ngữ Việt Nam trong những năm đầu thể ki XX. Nếu ở Bắc Bộ Hoàng Ngọc Phách nổi tiếng với tiểu thuyết Tô Tám thì ở Nam Bộ Hồ Biểu Chánh được bạn đọc đón nhận nồng nhiệt bởi sức sáng tạo dồi dào, phong phú với hàng loạt những tiểu thuyết có khuynh hướng tư tưởng trong sáng, tốt đẹp (đề cao cái thiện, cổ vũ cho sự cao quý của đạo lí hình dân truyền thống : quý trọng sự thủy chung, lòng bao dung, ca ngợi sự trung thực, thằng ngay, dám hi sinh vì tín nghĩa,...). Phải đặt mình vào tác phẩm của Hồ Biểu Chánh như Cha con nghĩa nặng vào nền văn xuôi nước nhà hồi đẩu thế kỉ mới có thể cảm nhận một cách đầy đủ những phẩm chất nghệ thuật của một ngòi bút tiểu thuyết giản dị, mộc mạc trong cách kể chuyện,ít gây-bất ngờ đột ngột nhưng khá cuốn hút. Hệ thống ngôn ngữ từ vựng cũng như các tình tiết về không gian, thời gian và nhân vật gần với đời thường, rất quen thuộc với người dân Nam Bộ.

   Chủ đề của đoạn trích cũng như chủ đề của tác phẩm đã được nhà văn thể hiện rất rõ qua nhan đề : Cha con nghĩa nặng Tình cha con cao quý thiêng liêng đã được nhà văn thể hiện hết sức xúc động không kém những tác phẩm hay viết về tình mẫu tử.

   Trần Văn Sửu là một người nông dân hiền lành, chất phác, một người chồng thương vợ, một người cha yêu con. Thị Lựu, vợ Sửu là một người đàn bà lăng loàn, đàng điếm. Sửu bắt-quả tang vợ ngoại tình. Vợ Sửu không biết hối lỗi, còn hỗn láo. Tức giận, Sửu xô vợ ngă. Không may Thị Lựu chết, Sửu phải bỏ trốn. Mọi người tưởng anh nhảy xuống sông tự tử. Sau mười một năm trốn tránh, Sửu lên về thăm con. Gặp bố vợ, Sửu biết con mình đã có cuộc sống yên ổn. Tuy rất muốn gặp con nhưng sợ chúng liên lụy, Sửu quyết định đi biệt tích. Nhưng thằng Tí, con trai Sửu biết bố về đã chạy đuổi theo. Cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi.

   Tình cha con được tác giả đặt trong một tình huống nghệ thuật giàu kịch tính. Mâu thuẫn giữa tình cha thương con và hạnh phúc của con, giữa hạnh phúc của con và tình con thương cha đã bật lên lời ngợi ca : "cha con nghĩa nặng".

   Cuộc chạy đuổi của hai cha con thật căng thắng. Người con vì muốn đuổi kịp cha nên đã chạy thật nhanh. Người cha một mặt vì tưởng có người đuổi bắt, mặt khác không muốn vì mình để liên lụy đến con nên càng chạy nhanh hơn. Người cha chạy vì muốn để lại phía sau sự bình yên cho các con. Người con chạy vì muốn tới kịp phía trước để giữ cha lại, lo cho tuổi già của cha. Hai-người chạy một cách vội vã, gấp gáp và họ đã gặp nhau trong tình thương yêu giành cho người mà họ yêu thương nhất.

   Khi người cha định tự tử thì đứa con cũng vừa lao tới. Chi tiết này thể hiện kịch tĩnh ở độ căng thẳng nhất. Người con chí chậm một chút thôi là vĩnh viễn mất cha. Người cha chi nhanh thêm chút thôi là không bao giờ còn có cơ hội gặp lại con. Tiếng gọi của đứa con yêu dấu đã kéo người cha khói bàn tay của tử thần. Giây phút cha con gặp nhau thật vô cùng cảm động: "Trần Văn Sửu giật mình, tháo dầu trở vô, rồi dậy mà ngó. Thằng Tí chạy riết lợi nắm tay cha nó, dòm sát vào mặt mà nhìn, rồi ôm cổ cha mà nói: "cha ơi, cha chạy đi đâu vậy ". Lúc ấy, Trần Văn Sửu mất trí khôn, hết nghị lực, máu trong tìm cháy thình thịch, nưỏc trong con mắt tuôn ròng ròng, đứng xui xị xui lơ, không nói được một tiếng chi hết. Cha con ôm nhau mà khóc một hồi rồi mới buông ra". Đặt tình cha con vào ranh giới của sự sống và cái chết, sự gặp gỡ và chia li vĩnh viễn, tác.giả đã khiến người đọc vô cùng hồi hộp và cũng vô cùng hạnh phúc để rồi từ đó nhận ra tình cha con là thứ tình cảm thiêng liêng và cao quý.

   Cuộc trò chuyện cảm động giữa hai cha con một mặt thể hiện tấm lòng thương yêu con của anh Sửu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu cha của thẳng Tí. Người cha vì hạnh phúc cùa con mà nhất quyết hi sinh cuộc sống riêng, muốn vĩnh viễn xạ con. Người con vì thương cha, lo cho tuổi già và sự an nguy của cha mà chạy theo tìm cha bằng được để mời cha trở về. Khi cha nhất định đi, Tí đã quyết theo cha vì "đi theo đặng làm mà nuôi cha, chìmg nào cha chết rồi con vể". Cuộc đối thoại giằng co đầy mâu thuẫn và xục động, tô đậm mối quan hệ máu mú ruột rà đáng quý: cha quên mình chỉ nghĩ đến tương lai hạnh phúc cùa con. Ngược lại. con hoàn toàn chỉ nghĩ đến cuộc sống an vui thanh thản lúc tuổi già cùa cha. Quả thật đây là một bài ca cảm động về tình nghĩa cha con: cha hiền, con hiếu.

   Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh đã được viết cách đây bảy thập kỉ. Từ ngữ, câu văn có thể cũ nhưng tình nghĩa cha con mà ông ngợi ca trong những trang viết của mình luôn luôn lấp lánh vẻ đẹp mà con người thời đại nào cũng thấy cần thiết.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập Ngữ văn Lớp 11 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư