Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình - Nỗi thương mình

2 trả lời
Hỏi chi tiết
1.062
0
0
Phạm Minh Trí
07/04/2018 12:37:08

Đề bài: Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Bài làm 1

   Nếu như Nguyễn Du được xem là đại thi hào không chỉ của văn học Việt Nam mà còn là của văn học thế giới thì Truyện kiều là kiệt tác làm nên tên tuổi đó của ông. Lật dở từng trang Truyện Kiều, người đọc như có cảm giác đang chứng kiến cuộc đời đầy đau thương, mát mát của thân phận nàng Kiều. Đoạn trích "Nỗi thương mình" như cứa vào long người những vết thương sâu khi Thúy Kiều rơi vào cảnh khốn cùng, bi đát.

   "Nỗi thương mình" kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều mắc lừa Sở Khanh và bị bán vào lầu xanh, dưới bàn tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Bằng niềm xót thương vô hạn cho nhân vật của mình, Nguyễn Du như nhỏ máu trên từng trang viết khi kể về cuộc đời Thúy Kiều. Những câu thơ mở đầu vén màn cho cuộc sống chốn lầu xanh phong trần, nhiều nhơ nhớp mà Thúy Kiều phải chịu đựng:

Biết bao bướm lả ong lơi

Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm

Dập dìu lá gió cành chim

Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh

   Những hình ảnh mang tính chất ước lệ "Bướm lả ong lơi" "cuộc vui", "trận cười suốt đêm...đã khiến người đọc liên tưởng đến khung cảnh nhộn nhịp, không thiếu vắng tiếng cười đùa, giỡn chơi với nhau. Một nơi "mua người bán người" như bao phủ lấy đoạn thơ, bao phủ lấy thân phận bé nhỏ của người con gái ấy. Đặc biệt hai điển cố Tống Ngọc và Trường Khanh để chỉ những khách làng chơi không bao giờ thiếu thốn ở những nơi như thế này. CUộc sống tưởng chừng như vui vẻ, tràn ngập tiếng cười như vậy nhưng lại là ngục tù đày đọa thân xác của Thúy Kiều.

   Thả mình vào không gian như thế này, Thúy Kiều đau đớn và xót xa:

Khi tỉnh rượu lúc canh tàn

Giật mình, mình lại thương mình xót xa

   Trong không khí như thế này thì "rượu" chính là thứ để Thúy Kiều mượn tạm để giải sầu cho khuây khỏa, cho đỡ buồn chán và tẻ nhạt. Những lúc rượu tỉnh và đêm đã khuya thì nàng mới "giật mình" "thương mình xót xa". Phép điệp từ "mình" của Nguyễn Du một lần nữa lại gieo vào long người nỗi xót xa vô hạn. Thương cho phận người con gái long đong, thương cho số phận bạc bẽo nương nhờ chốn phong trần.

   Thúy Kiều đã có những tháng năm đày đọa thân xác nơi chốn nhơ nhuốc, dơ bẩn này:

Khi sao phong gấm rủ là

Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

Mặt sao dày gió dạn sương

Thân sao bướm chán ong chường bất thân

   Không ai thương cho phận mình nên Thúy Kiều tự ôm lấy mình mà khóc, mà sầu, mà đau. Cuộc vui chóng tàn, người rồi cũng đi, cô đơn bóng lẻ. Tác giả đã ẩn dụ hình ảnh « hoa tàn » để nói lên cuộc đời bị chà đạp, vùi dập không thương xót của người con gái mỏng manh này. Một xã hội nhơ nhớp, chỉ toàn những điều xấu xa, con người yếu đuối thường rất dễ bị vùi dập và chà đạp như vậy.

   Khung cảnh lạnh lẽo, cô đơn ấy khiến cho THúy Kiều tưởng chừng như mình đã chết :

Đòi phen gió tựa hoa kề

Nửa rèm tuyết ngâm bốn bề trăng thâu

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ

Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa

   Giữa chốn lầu xanh dơ bẩn như thế này Thúy Kiều chỉ biết làm ạn với thơ, với họa, với đàn. NHưng nó lại khiến cho người con gái mỏng manh ấy cô đơn, xót xa. Nàng không còn cảm thấy đam mê là nguồn sống nữa. Nỗi buồn bao phủ lấy cả cảnh vật nơi đây khiến cho cảnh cũng có tình, cũng biết buồn, biết gieo nỗi sầu như chính con người vậy.

   Với biện pháp tả cảnh ngụ tình rất tinh tế và điêu luyện, Nguyễn Du đã khắc họa tâm trạng nhân vật Kiều một cách chân thực và rõ nét nhất. Nỗi buồn chồng chất nỗi buồn khiến cho người con gái ấy tưởng chừng như gục ngã.

   Sống giữa chốn lầu xanh, Thúy Kiều phải gồng mình để sống, cố gắng để sống mà như đã chết:

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai

   Niềm vui với Thúy Kiều không hề trọn vẹn, chỉ là "gượng" để cho người ta thấy, cho người ta biết nhưng thực ra trong lòng lại không "mặn mà với ai".

   Như vậy, chỉ với một đoạn thơ ngắn nhưng Nguyễn Du đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc khi người con gái tài sắc vẹn toàn ấy lại rơi vào bế tắc và khốn cùng như vậy.

   Thúy Kiều đã lấy đi không ít nước mắt của người đọc và lấy đi không ít tâm huyết và tình yêu thương của Nguyễn Du.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Phạm Văn Bắc
07/04/2018 11:16:49

Đề bài: Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Bài làm 2

   Lưu ý trước khi phân tích

   Thúy Kiều, nhân vật chính diện, nhân vật trung tâm của tác phẩm được Nguyễn Du hết sức yêu mến và dày công xây dựng. Nàng đã được đặt trong nhiều mối quan hệ để bộc lộ tính cách và nhân phẩm. Quan hệ với tình yêu, gia đình, quan hệ xã hội... Trong bất kì mối quan hệ nào, Kiều cũng ngời lên những vẻ đẹp trong sáng, đáng quí, đáng trân trọng.

   Đoạn trích Nỗi thương minh khắc họa tâm trạng đau đớn ê chề, tủi nhục đắng cay khi buộc phải tiếp khách ở lầu xanh của mụ Tú Bà đồng thời thể hiện ý thức của nàng về nhân phẩm của con người.

   Về việc Kiều phải trải qua kiếp đoạn trường, nhất là việc ở lầu xanh, trước kia không phải khôug có những ý kiến trái ngược nhau. Với lòng thông cảm vô hạn, thương xót: Bạc mệnh cầm chung oán hận trường (khúc đàn bạc mệnh gảy đã xong mà nỗi oán hận vẫn còn vang mãi mãi). Nguyễn Công Trứ (Vịnh Thúy Kiều) đã kết tội nàng, cho nàng là kẻ tà dâm: Đoạn trường dáng kiếp tà dâm. Thực ra, qua khách làng chơi, Nguyễn Du đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách ngời sáng của nàng trong chốn bùn nhơ, tàn bạo.

   Hướng dẫn phân tích

   1. Chia đoạn, nội dung của từng đoạn.

   Đoạn trích có thể chia thành 3 đoạn nhỏ với các nội dung như sau:

   - Đoạn 1: BỐn câu đầu tiên: Giới thiệu tình cảnh trớ trêu của Kiều.

   - Đoạn 2: Tám câu tiếp theo: Tâm trạng, nỗi niềm của Kiều sống trong tình cảnh trớ trêu ấy.

   - Đoạn 3: Tám câu còn lại: Tả cảnh để diễn tả sự cô đơn, đau khổ của Kiều.

   2. Bút pháp ước lệ trong đoạn trích

   Đưa chốn lầu xanh nhơ bẩn, chuyện gái trai tục tĩu vào tác phẩm nghệ thuật quả là vấn đề nan giải. Để tránh được chuyện tục tĩu ấy, Nguyễn Du đã dùng bút pháp ước lệ là cách dùng các hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng, các điển tích, điển cố như: bướm lả ong lơi, lá giỏ cành chim, sớm đưa Tống Ngọc tói tìm Trường Khanh, gió tựa hoa kề... Với bút pháp ước lệ, Nguyễn Du không né tránh hiện thực, miêu tả được thực tế đầy nhơ bẩn chốn lầu xanh mà câu thơ vẫn trang nhã, thanh cao, không chút dung tục. Nhờ vậy, chân dung Thúy Kiều hiện lên cao đẹp. Và cũng qua đó, nhà thơ thể hiện thái độ trân trọng, đầy cảm thông của mình đối với nhân vật.

   3. Các dạng thức đối xứng khác nhau được sử dụng trong đoạn trích và giá trị nghệ thuật của chúng.

   Để tô đậm nỗi thương thân xót phận của Kiều, Nguyễn Du đã khai thác triệt để hình thức đối xứng trong thơ.

   Hình thức đối xứng ở cấp thấp nhất là tiểu đôi trong một vế 4 chữ của câu thơ: bướm lả ! ong lơi, lá gió / cành chim, dày gió / dạn sương, bướm chán ong chường, mưa Sở / mây Tần, gió tựa / koa kề. Đây là cách chẻ những từ thông thường (ong bướm, lả lơi; lá cành, chim gió; dày dạn, gió sưong...) tạo thành quan hệ đối xứng nhằm nhấn mạnh mức độ cao hơn của nội dung cụm từ không có tiểu đối.

   Hình thức tiểu đối trong một câu thơ: Sớm đưa Tống Ngọc / tối tìm Trường Khanh. Khi tỉnh rượu / lúc tàn canh, Nửa rèm tuyết ngậm / bốn bề trăng thâu, Cung cầm trong nguyệt / nước cờ dưới hoa có giá trị nhấn mạnh sự liên tục, kéo dài của sự việc hay cái mênh mông của thời gian.

   Đối xứng giữa hai câu thơ lục bát: Khi sao phong gấm rủ là / Giờ sao tan tác như hoa giữa đường nhằm tạo nên sự đối lập gay gắt giữa quá khứ êm đềm hạnh phúc và hiện tại đầy nghiệt ngã; Mặt sao dày gió dạn sương / Thân sao bướm chán ong chường bấy thân nhấn mạnh ý so sánh thân thể còn đau khổ hơn là sự bẽ bàng chua chát trên nét mặt; Mặc người mưa Sở mây Tần / Những mình nào biết có xuân là gì nhấn mạnh sự đối lập giữa người và ta.

   4. "Nỗi thương mình" của nhân vật có ý nghĩa mới mẻ đối với văn học trung đại:

   Thời trung đại, con người không được nhìn nhận ở phương diện cá nhân mà được nhìn nhận ở phương diện xã hội. Xem xét con người, người ta thường nhìn xem người ấy thuộc tầng lớp nào: bình dân hay kẻ sĩ, quan lại hay dân thường... Người phụ nữ thường được giáo huấn theo tinh thần an phận thủ thường, cam chịu, nhẫn nhục. Phải hiểu được điều này mới thấy được cái mới mẻ trong Nỗi thương mình của nhân vật Thúy Kiều.

   Sống ở lầu xanh, ngoài những giờ phút phải tiếp khách, Kiều đối diện với lòng mình và: Giật mình mình lại thương mình xót xa. Nỗi thương mình của Kiều cho thấy nàng không chỉ biết hi sinh, cam chịu, nhẫn nhục, mà nàng còn có sự tự ý thức về phẩm giá, nhân cách bản thân tức là ý thức về quyền sống của bản thân mình. Sự tự ý thức về bản thân mang ý nghĩa cách mạng so với thời trung đại. Thương thân xót phận là một hiện tượng khá phổ biên trong văn chương thời đại Nguyễn Du như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn hay thơ Hồ Xuân Hương, nhưng Nguyễn Du viết về chủ đề này thấm thía hơn.

   5. Trong cuộc tái ngộ, Kim Trọng nói với Kiều: "Như nàng lấy hiếu làm trinh - Bụi nào cho đục được mình ấy vay?". Đoạn trích này có thể góp phần lí giải câu hỏi đó.

   Như ta đã biết, trong tiếp nhận văn bản Truyện Kiều, việc cho Kiều là trinh hay dâm không phải hoàn toàn thống nhất với nhau (tham khảo thêm phầu những kiến thức cần lưu ý), cần căn cứ vào văn bản để minh định. Nguyễn Du thể hiện rất rõ điều này qua tác phẩm mà đoạn trích Nỗi thương mình là một ví dụ. Ở phần Đoàn viên, Nguyễn Du tỏ thái độ của mình qua lời Kim Trọng:

Như nàng lấy hiếu làm trinh,

Bụi nào cho đục được mình ấy vay?

   Dù rất thương yêu, mến mộ Thúy Kiều song thực tế đầy phũ phàng (và do phải trung thành với cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân) nên Nguyễn Du không thể không để cho Kiều phải vào lầu xanh. Nguyễn Du không né tránh thực tế nhưng cũng chính từ sự việc này, nhà nhân đạo chủ nghĩa lại có điều kiện để cho nhân cách của Kiều ngời sáng, nghĩa là Kiều không dâm, không một chút vui thú trong chốn bùn nhơ. Nàng đau đớn xót xa, bàng hoàng ngỡ ngàng trước những cuộc say, trận cười:

Giật mình / mình lại / thương mình xót xa.

   Câu thơ bị ngắt vụn ra như sự tan nát trong cõi lòng nàng. Nàng lấy làm chán chường tủi hổ, chứ không vui thú gì, nàng lãnh đạm, thờ ơ trước khách làng chơi:

Mặt sao dày gió dạn sương,

Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!

Mặc người mưa Sở mây Tần

Những mình nào biết có xuân là gì.

   Không cưỡng lại được trước thế lực tàn bạo, nàng Kiều đã chống lại bằng thái độ. Tâm hồn của Kiều hoàn toàn trong trắng, nhân cách, phẩm giá của Kiều hoàn toàn cao thượng. Đúng như Kim Trọng nói: Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo