Kim Lân là nhà văn có sở trường trong thể loại truyện ngắn, những tác phẩm của ông thường hướng đến đời sống nông thôn và tập trung vào hình tượng người nông dân. Người nông dân trong những trang văn của Kim Lân là những người nghèo khổ, bị đặt trong những tình huống éo le nhưng vẫn bộc lộ được những phẩm chất tốt đẹp, đó là tình thương, là khát khao hạnh phúc, là niềm tin vào tương lai. Vợ nhặt là truyện ngắn điển hình cho phong cách sáng tác của Kim Lân. Trong tác phẩm, bên cạnh nhân vật Tràng, bà cụ Tứ, người vợ nhặt cũng được tập trung miêu tả để làm nổi bật chủ đề tác phẩm. Nhân vật người vợ nhặt tuy chỉ là nhân vật phụ nhưng thông qua sự thay đổi của nhân vật trong thời điểm trước và sau khi lấy Tràng đã thể hiện được tài năng phân tích tâm lí nhân vật, đồng thời thể hiện sự trân trọng của nhà văn Kim lân đối với những giá trị tốt đẹp bên trong con người.
Người vợ nhặt hiện lên trong phần đầu tác phẩm là người đàn bà trơ trẽn, chỏng lỏn khi lớn tiếng mắng Tràng vì nuốt lời, khi vô tư ăn liền một chặp hết bốn bát bánh đúc. Tuy nhiên, cái tinh tế của Kim Lân là việc diễn tả sự thay đổi của người vợ nhặt sau khi đồng ý làm vợ, làm dâu nhà anh Tràng. Sự thay đổi về tính cách này thể hiện rõ nhất thông qua chi tiết miêu tả cách ăn của chị ta.
Nếu như trong buổi chiều gặp Tràng ở phố huyện, khi được Tràng đồng ý đãi bánh đúc ở ngoài chợ: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” thì buổi sáng hôm sau, trong mâm cơm ngày đói, ta không còn thấy một người đàn bà vô duyên, vô ý nữa mà mọi hành động và thái độ đều rất từ tốn, đúng mực, khi nhận bát “chè khoán” từ mẹ chồng: “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng”.
Trong lần ăn uống thứ nhất, người vợ nhặt gặp lại Tràng – người mình đã đẩy xe bò thóc hôm trước tình trạng gầy sọp, xanh xao vì bị bỏ đói nhiều ngày. Khi gặp lại Tràng, Thị đã không ngần ngại mà đòi ăn, khi được Tràng đồng ý chị ta đã sà xuống ăn liền một mạch hết hai bát bánh đúc. Trong lúc ăn chị ta cũng không ngẩng mặt lên, không chuyện trò. Hành động sỗ sàng có phần vô duyên ấy đã làm cho thị trở nên trơ trẽn, cái đói đã không chỉ vắt kiệt sự sống mà còn đánh mất ở thị phần nhân tính, phẩm giá của con người.
Theo dõi lời nói chỏng lỏn, hành động vô duyên của Thị, ta không thấy được nét duyên dáng, dịu dàng của một người phụ nữ thông thường. Tuy vô duyên, chỏng lỏn nhưng nếu nhìn vào cách chị ta ăn có thể thấy chị ta đã đói rất lâu ngày, hành động đòi ăn cũng xuất phát từ bản năng ham sống đến mãnh liệt, bởi trong những hoàn cảnh khó khăn, cùng cực nhất người đàn bà ấy vẫn khát khao được sống.
Lần ăn thứ hai của Thị được miêu tả là lần ăn “chè khoán” – món quà đặc biệt của bà cụ Tứ trong buổi sáng đầu tiên con dâu về nhà. Khi ấy Thị đã trở thành vợ của anh Tràng, con dâu của bà cụ Tứ. Điều bất ngờ nhất đối với toàn bộ độc giả đó chính là sự thay đổi của người vợ nhặt. Không còn hành động táo bạo, vô duyên, vội vã trước miếng ăn như khi ở chợ huyện nữa. Đón nhận đồ ăn từ mẹ chồng, mắt thị tối lại, hành động điềm tĩnh cho bát chè khoán vào miệng, và dù miếng cháo đắng chát, nghẹn ứ nơi cổ thì chị ta vẫn tỏ ra bình thường.
Hành động này của nhân vật Thị đã thể hiện được sự biến chuyển rõ ràng trong hành động, qua đó bộc lộ được nét tính cách thật của chị ta. Trước miếng cháo đắng nghẹn, đôi mắt chị ta tối lại vì những lo lắng, buồn bã khi cái đói, cái nghèo vẫn vây hãm. Nhưng ngay sau đó người vợ nhặt đã lấy lại tinh thần, đưa món cháo cám lên miệng ăn ngon lành, hành động ấy không chỉ là dấu hiệu chấp nhận hiện thực mà còn thể hiện niềm tin mãnh liệt của người đàn bà ấy vào tương lai. Chị ta chấp nhận đương đầu với cái đói, cái nghèo để xây dựng hạnh phúc gia đình nhỏ bé của mình.
Người vợ nhặt vốn là người phụ nữ hiểu biết cùng khát khao sống, khát khao hạnh phúc mạnh mẽ. Vì hoàn cảnh mà chị ta trở nên táo bạo, trơ trẽn. Tuy nhiên, khi có mái ấm gia đình chính tình thương và khát khao hạnh phúc đã giúp chị ta trở về đúng với con người thực của mình, một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực.