LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích tác phẩm 'Chiếc thuyền ngoài xa' của Nguyễn Minh Châu

2 trả lời
Hỏi chi tiết
899
0
0
Nguyễn Thị Thảo Vân
01/08/2017 02:11:24
Đề bài: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.
Bài làm
Căn cứ theo điều Nguyễn Minh Châu lúc sinh thời từng tâm niệm : "Không có một thứ nghề nào mà kết quả công việc lại có thể cắt nghĩa rõ rệt chân giá trị của người làm ra nó như nghề viết văn" thì có thể khẳng định rằng những gì ông để lại cho đời đã đảm bảo chắc chắn ông là một tài năng và một nhân cách lớn. Sự nghiệp sáng tác của ông có một vị trí quan trọng trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới sau năm 1975 và ông rất xứng đáng với lời đánh giá của nhà văn Nguyên Ngọc : "Nguyễn Minh Châu thuộc số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng của vãn học ta hiện nay".
Mẫn cảm với nghề, Nguyễn Minh Châu ý thức rất sớm về xu thế tất yếu phải đổi mới văn học, mà trước nhất là đổi mới quan niệm về văn chương, về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn. Từ năm 1945 dến 1975, văn học Việt Nam có sứ mệnh phục vụ chiến đấu, nó phải trở thành một vũ khí, một "mặt trận"tư tưởng. Yêu cầu dó quy định cách văn học tiếp cận cuộc sống chủ yếu từ góc độ lịch sử - sự kiện. Những vấn đề của cộng đồng được ưu tiên và được coi như tiêu chí hàng đầu dể định giá tác phẩm. Tự nguyện làm một nhà văn - chiến sĩ, Nguyễn Minh Châu đã góp vào nền văn học kháng chiến những tác phẩm xuất sắc : Cửa sông, Dấu chân người lính, Mảnh trăng cuối rừng. Chính trong thời kì hào hùng và cam go ấy, nhà văn ghi vào nhật kí : "Hôm nay chúng ta đang chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc, nhưng sẽ đến một ngày chúng ta phải chiến đấu cho quyền sống của từng con người, sao cho con người ngày một tốt hơn. Chính cuộc đấu tranh ấy mới là lâu dài". Hoá ra con người là mối bận tâm thường xuyên của ông. Nhận xét văn học viết trong chiến tranh của chúng ta thường có hạn chế lớn : "sự kiện lấn át con người", ông cả quyết rằng sẽ đến lúc vãn học "phải viết về con người", "trước sau con người cũng leo lên trên sự kiện để đòi quyền sống".

Khi đất nước hoà bình, Nguyễn Minh Châu có điều kiên để hiện thực hoá những suy tư đầy sáng suốt đó. Ông coi "văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người", còn nhà văn chân chính thì bao giờ cũng "mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống, nhất là tình yêu thương con người". Tình yêu ấy thôi thúc ông làm một cuộc tự đổi mới âm thầm mà quyết liệt. Trong những sáng tác từ sau nầrn 1975, ngòi bút ông ngày càng nghiêng hẳn về đề tài thế sự, nơi ông có thể đi sâu vào những vấn đề của cá nhân trong mối quan hệ đời thường đa đoan, phức tạp. Rồi từ đó ông đề xuất quan niệm mới mang nội dung dân chủ và nhân bản sâu sắc về con người.
Hai tập truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983) và Bến quê (1985), đánh dấu bước chuyển vững vàng của Nguyễn Minh Châu. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa (viết xong tháng 8 - 1983) in trong tập Bến quê.
Những đổi mới của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn này về cơ bản tập trung ở cách tiếp cận đời sống và quan niệm về con người. Chọn số phận cá nhân trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn thời hậu chiến làm đối tượng khám phá, nhà văn đã kiên quyết khước từ cái nhìn lí tưởng hoá con người, để hiện thực hiện lên với tất cá cái xù xì, góc cạnh của nó. Truyện dường như không có bóng dáng bất cứ một sự kiện chính trị - xã hội nào, chỉ là cuộc sống bế tắc quẩn quanh, thường nhật của một gia đình dân chài vùng đầm phá miền Trung, cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số. Điều tác giả muốn nhấn mạnh là : tính chất phức tạp, bí ẩn của đời sống không thể nhìn bằng cái nhìn giản đơn, dễ dãi. Ông đã sáng tạo một tình huống thật độc đáo và hấp dẫn nhằm chuyển tải tư tưởng riêng, những phát hiện riêng về cuộc đời và về văn chương.
Vai trò của tình huống luôn được người viết truyện ngắn đé cao.Với Nguyễn Minh Châu, "Đôi khi người ta nghĩ ra được một cái tình thế xảy ra câu chuyện thật hay và thế là coi như xong một nửa". Tình huống chính là "thứ nước rửa ánh làm nổi hình nổi sắc nhân vật, làm rõ tư tưởng của nhà văn".
Chiếc thuyền ngoài xa được triển khai trên hai tình huống chính. Tình huống tự nhận thức là tình huống lớn, bao trùm toàn bộ câu chuyện : Nhân vật Phùng được cử tới vùng biển xa xôi kia để chụp ảnh bổ sung cho bộ ảnh lịch chuyên đề mười hai tháng về biển. Trưởng phòng khi giao nhiệm vụ nói với Phùng : "không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật". Nhờ đó mà Phùng có cơ hội chứng kiến một tình huống khác hết sức bất ngờ và khó tin : một người phụ nữ làng chài thường xuyên bị chồng đánh đập dã man, vẫn cắn răng cam chịu, từ chối lời khuyên đầy thiện chí cúa vị thẩm phán toà án huyện, kiên quyết không rời bỏ người chồng vũ phu. Cách xử sự lạ lùng của người đàn bà gây thắc mắc cho cả Phùng (phóng viên ảnh) lẫn Đẩu (thẩm phán). Kết cục là họ "vỡ ra" được nhận thức mới, đúng hơn, một nhận thức làm thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc của họ (kiểu tình huống này cũng xuất hiện ở nhiều truyện khác của Nguyễn Minh Châu như Bức tranh, Bến quê, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,...).
Do tình huống đặt ra là tình huống tự nhận thức nên cốt truyộn được xây dựng trên nguyên tắc luận đề : sự kiện, sự việc chỉ là phông nền cho quá trình vận động tâm lí dần đến bước ngoặt tư tưởng.
Chủ thể của quá trình nhận thức ở đây là nhân vật Phùng, người kể chuyện xưng tôi (một hoá thân của Nguyễn Minh Châu ?). Phùng có phẩm chất đáng quý của một nghệ sĩ giàu tâm huyết, tâm hồn tinh tế, thiết tha với cái đẹp. Cảnh thiên nhiên vùng đầm phá buổi sáng, "phẳng lặng và tươi mát" ; cảnh đẩy thuyền ra khơi sôi nổi, náo nhiệt và khoẻ khoắn, cảnh thuyền cá trở về lúc bình minh rực rỡ; cánh biển đông huyền bí, sâu thẳm... đã đem lại những rung động " tuyệt đỉnh", khiến anh vui sướng, hạnh phúc đến mức "tưởng như chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khác trong ngần của tâm hồn". Đằng sau những câu văn khá du dương, hào phóng mĩ từ trong đoạn này, ngầm án một nụ cười hài hước, chế giễu nhẹ nhàng lối tư duy lãng mạn cùa nhiều nghệ sĩ (đó cũng có thể là nụ cười tự trào đầy thâm thuý của Nguyễn Minh Châu). Tự tin và tự mãn, Phùng đã vội thu vào ống kính "cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại". Anh ngỡ rằng mình sáng suốt hơn người trưởng phòng, biết gắn cái đẹp thiên nhiên với hình ảnh con người, biết tìm ra sự hài hoà giữa chất thơ của trời biển với vẻ "náo nhiệt" tưng bừng của lao động. Nhưng anh đã lầm. Bước ngoặt trong nhận thức người nghệ sĩ được tác giả khắc hoạ thật sắc sảo qua sự đối lập gay gất giữa "cái - thấy - phút - trước" với "cái - thấy - phút - sau". Mấy cụm từ giản dị mà đầy sức nén của chân lí : "tôi chắc mẩm" (niềm tin có sẵn), "ngay lúc ấy" (đột biến), "bất giác tôi nghe" (hoang mang trước sự thật).
Phùng đã hai lần chứng kiến cảnh người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn trên bờ biển (lần thứ hai, thậm chí anh còn nhảy vào can thiệp và bị thương) rồi lại chứng kiến cách chị ta ứng xử tại toà án của chánh án Đẩu. Trong suy nghĩ của Phùng và Đẩu, người đàn bà khốn khổ đáng thương không nên cam chịu bị hành hạ, chắc bà ta sẽ vui vẻ chấp thuận bỏ chồng để được giải thoát khỏi đòn roi. Ngờ đâu cả thiện chí lẫn luật pháp đều bất lực : người đàn bà khi mới nghe vị thẩm phán thuyết phục li dị chồng đã "chắp tay lại vái lia lịa : - Con lạy quý toà...". Trước cảnh này, Phùng kinh ngạc cao độ và cảm thấy bức bối : "gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt quá" vì "không thể nào hiểu được" thái độ cam chịu lạ lùng ấy. Ở đây diễn ra một sự va chạm gay gắt giữa những điều đã mặc định về con người với thực tế sống động của hiện thực. Phùng và Đẩu đều tin rằng mình đúng : họ đã bảo vệ bà ta bằng cả thiện chí lẫn luật pháp. Họ đinh ninh chồng bà ta là kẻ xấu xa, bỏ lão là giải pháp tốt nhất. Chỉ có điều người đàn bà lam lũ ấy giống như một bí mật mà họ chưa bao giờ biết. Sự thay đổi hoàn toàn tư thế và lối xưng hô, những câu nói chất phác mà "thấu tình đạt lí" của bà làm cả Phùng lẫn Đẩu bối rối "những lời ấy, nhất là đấy lại là lời một người đàn bà khốn khổ, không phải dễ nghe đối với chúng tôi...". Một lần nữa cách nhìn đầy định kiến và dơn giản "va" phải cái trí khôn của đời sống. Người đàn bà thất học lại có tư cách giảng giải cho hai vị trí thức về những nghịch lí mà con người phải chấp nhận khi nó bị cầm tù trong hoàn cảnh đói nghèo cùng cực. Hoá ra cuộc sống vốn đầy nghịch lí mà cái nhìn chủ quan duy ý chí không bao giờ thấy hết. Pháp luật công bằng, lòng tốt vô tư đều chưa đủ hoá giải những nghịch lí ấy. Nguyễn Minh Châu thật sâu sắc khi phát hiện sự cam chịu của người đàn bà là một phẩm chất, là cái đẹp đáng giá nhất, vì nó cần thiết nhất cho những người dân hàng chài cơ cực kia khi xã hội chưa có một giải pháp thực sự hiệu quả để thay đổi số phận họ.
Người đàn bà thất học mà không tăm tối. Thái độ nhẫn nhịn là kết quả của bao tình cảm vị tha, thánh thiện : "Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không phải sống cho mình như ở trên đất được !...". Vậy là người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn, phiền não để đảm bảo cho sự tồn tại của cái gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước vốn đầy rẫy bất trắc. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời cứa người phụ nữ ở câu chuyện này phát lộ dưới hình thức bất ngờ nhất và cũng cảm động nhất. Nó cho bà ta can đám để chịu dựng những trận đòn tàn bạo của chồng (khi bị chồng đánh bà không hé kêu khóc hay chống cự), nhưng lại khiến bà "đau đớn", "xấu hổ, nhục nhã" khi biết mình vô tình làm tổn thương tâm hồn đứa con thơ dại (bà "mếu máo" gọi tên Phác, "ôm chầm lấy nó", "chắp tay vái lấy vái để" đứa con, bà cũng dã khóc ở toà án khi nghe Phùng nhắc đến thằng Phác).
Nguyễn Minh Châu đã di chuyển điểm nhìn từ Phùng sang Đẩu rồi bất ngờ "trao" cho người đàn bà và chính cái người mẹ hàng chài thô kệch, mặt rỗ xấu xí, đầy vẻ lam lũ, cam chịu ấy lại là người sắc sảo, hiểu đời hơn hẳn hai vị trí thức. Chánh án Đẩu và phóng viên nhiếp ảnh Phùng đã từng kinh qua chiến tranh, đi nhiều thấy nhiều mà hoá ra vẫn nông cạn, hời hợt trước hiện thực khắc nghiệt của gia đình bà và những người dân chài khác. Cuộc sống được Đẩu nhìn bằng sự rành rẽ, công bằng của luật pháp, Phùng nhìn bằng con mắt nghệ sĩ. Cá hai đều có sẵn lòng tốt và thiện chí với cuộc đời. Chỉ có điều các anh quen tư duy một chiều về cuộc đời (chẳng hạn, câu hỏi "như lạc đề" của Phùng : "Lão ta trước hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không ?" hay cái thắc mắc rất ngây thơ của Đẩu : "Vậy sao không lên bờ mà ở ?") nên chỉ thấy được những gì là tất yếu, hợp lí. Người đàn bà trái lại, từ số phận mình đã buộc các anh phải đặt đời sống vào cái nhìn nhiều chiều để nhận ra vô vàn nghịch lí : bãi xe tăng bị bốc cháy (chứng tích về chiến công anh hùng trong chiến đấu) là nơi người đàn bà thường xuyên bị đánh đập, còn những đứa trẻ thì đói khát và thất học (bi kịch đói nghèo chưa cách gì chấm dứt), thiếu nữ mảnh dẻ duyên dáng "như nàng tiên cá" lại "được tách ra từ da thịt một người đàn bà hàng chài xấu xí và đau khổ", người mẹ yêu con, cố che giấu sự thật để tránh cho con khỏi đau lòng, không ngờ lại làm nó tức giận đến mù quáng,... Chính những lời giãi bày chất phác, dè dặt của người đàn bà dã dần dần "mở mắt" cho Phùng và Đẩu. Tất nhiên việc thay đổi cách nhìn, cách nghĩ quen thuộc không dễ dàng gì. Làm sao hai vị cựu chiến binh của một thời đánh giặc lừng lẫy có thể thấm thìa được ngay bao nhiêu nông nỗi yêu thương, xa xót, đắng cay, hờn tủi, bao nhiêu thấu hiểu độ lượng trong giọng nói đứt quãng của bà ta : "Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu [...]. Giá mà lão uống rượu [...] thì tôi còn đỡ khổ [...]. Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão [...] đưa tôi lên bờ mà đánh [...]". Phùng và Đẩu đã "cùng một lúc thốt lên" : "Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Có lẽ họ chỉ thực sự "tâm phục khẩu phục" khi phát hiện cái sức mạnh nội tâm kì lạ nâng đỡ người đàn bà : "Lần đầu tiên trên khuôn mặt xẩu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười - vả lại, ở trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hoà thuận vui vẻ [...]. Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no.
Nguyễn Minh Châu đã thật "cao tay" khi làm cuộc hoán đổi vị thế giữa Phùng, Đẩu với người đàn bà - cuộc hoán đổi để xác lập quan niệm dân chủ về con người. Tính cách đầy mâu thuẫn của người phụ nữ hàng chài thể hiện tư tưởng nhân bản sâu sắc của nhà văn, hiện thực hoá ý định của ông khi sáng tác truyện ngắn này : "Con người sống trong xã hội, sống giữa cộng đồng đã từng tồn tại từ lâu và còn tồn tại mãi nhưng họ phải chịu biết bao đau đớn để cho người và người được bên nhau, gắn bó với nhau trong cái quần thể xã hội đầy mâu thuẫn trên chiếc thuyên nọ... Không phải lúc nào con người cũng đấu tranh với nhau mà nhiều khi phải chịu đựng lẫn nhau. Những con người lao động và lương thiện hết đời này sang đời khác đã chịu biết bao nhiêu điểu đau khổ bất công để sống nuôi nấng con cái, làm cho đời sống bất diệt". Tình yêu thương con người ở Nguyễn Minh Châu lúc nào cũng nặng trĩu những suy tư se xót nên tình cảm nhân đạo của ông thường nghiêng về phía những thân phân bé nhỏ, nhiều đau khổ và ông đặc biệt nhạy cảm với những vẻ đẹp thầm lặng mà vững bền - những vẻ đẹp mang gương mặt phụ nữ (như Liên trong Bến quê, Thai trong cỏ lau,...).
Nguyễn Minh Châu có những câu văn giản dị như lời nói thường, không một chút "làm văn" mà đầy dư ba. Câu văn sau đây là một ví dụ - đấy là câu Phùng hỏi người đàn bà : "Cả đời chị có một lúc nào thật vui không ?". Vâng! Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn như thế mà nói đến niềm vui liệu có xa xỉ quá không ? Nhưng mấy ai đã hiểu sự tận tuy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với họ. Nghe người đàn bà hàng chài nói về niềm vui, Đẩu như "bừng ngộ" : "Một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển, lúc này trông Đẩu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ". Đến đây người kể chuyện (Phùng) đã nhập hẳn vào dòng tâm tư của Đẩu, sự giác ngộ của Đẩu cũng chính là sự giác ngộ của anh. Hành trình tự nhận thức của cả hai luôn có sự song trùng. Nhưng qua Phùng - người phóng viên nhiếp ảnh, Nguyễn Minh Châu còn thực hiện một cuộc "tự vấn" của văn chương : giữa cuộc sống cơm áo nhiều hệ luỵ, văn chương chọn cách ứng xử nào ? "Chiếc thuyền ngoài xa" rất khác với nó khi đã cập bờ. Nghệ thuật tiếp cận hiện thực thế nào để không bỏ quên số phận con người ? Nhan đề truyện rõ ràng là một ẩn dụ sâu sắc (nó gợi nhớ các nhan đề như Mảnh trăng cuối rừng, Bến quê, Bức tranh, cỏ lau,...), một câu hỏi bỏ ngỏ cho những ai muốn chọn văn chương nghệ thuật để bày tỏ tình yêu con người. Câu hỏi này ám ảnh tới mức dù bức ảnh lịch năm đó của Phùng chỉ có hai màu đen trắng mà sau này mỗi lần ngắm nó Phùng cứ thấy hiện về cái màn sương màu hồng (lãng mạn) như đối lập với dáng đi chậm rãi, vững chắc của người đàn bà trên cát (hiện thực). Một lời nhắc nhở hay một niềm tin sâu xa vào sứ mệnh cao quý của người nghệ sĩ ? Chắc chắn rằng, với Nguyễn Minh Châu, với truyện ngắn này, nghệ sĩ không có quyền nhìn sự vật một cách giản đơn, dễ dãi mà phải đào xới vào những tầng sâu đời sống để làm lộ ra những gì có khả năng đánh thức tình yêu thương con người.
Tình huống truyện độc đáo, kết hợp với nhân vật tư tưởng và nhân vật tính cách - số phận đã giúp nhà văn giãi bày nỗi băn khoăn, trăn trở về tính phức tạp đa chiều của cuộc sống, về bao nhọc nhằn còn đè nặng lên số phận con người, về mối quan hệ máu thịt giữa nghệ thuật và hiện thực. Khát vọng đổi mới văn chương bằng việc đi tìm một quan niệm chân thật hơn, hợp lí hơn về con người dựa trên nền tảng triết học nhân bản qua giọng văn thấm thìa chiêm nghiệm, qua cái nhìn dân chủ hoá của người trần thuật,... đã trở thành nhu cầu tự vấn mạnh mẽ, trung thực, đủ sức khẳng định tư cách "người mở đường" cho công cuộc đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 của Nguyễn Minh Châu.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
Bạch Tuyết
01/08/2017 00:14:30
Đề bài: Phân tích tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
Bài làm
Nguyễn Minh Châu bắt đầu viết vãn từ năm 1954, nhưng chỉ thực sự khẳng định được tài năng của mình kể từ tiểu thuyết Cửa sông (1967) và Dấu chân người lính (1972).
Tác phẩm chính: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Lửa từ những ngôi nhà, Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Những người di từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện, 1983), Bến quê (tập truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), cỏ lau (tập truyện, 1989)... Ngoài truyện ngắn, tiếu thuyết. Nguyễn Minh Châu còn viết lí luận phê bình, phần lớn các bài viết được tập hợp trong cuốn “Trang giấy trước đèn” (1994).

Nguyễn Minh Châu - cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại, có nhiều đóng góp xuất sắc cho văn học thời kì kháng chiến chông Mĩ. Ông “kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam” đồng thời “mở đường rực rờ cho những cây bút trẻ sau này” (Nguyễn Khải).
Nguyễn Minh Châu đã được Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm 1984 - 1989 cho toàn bộ tác phẩm của ông viết về chiến tranh và người lính; Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989) cho tập truyện vừa cỏ lau. Năm 2000, ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa lúc đầu được in trong tập Bến quê, sau được Nguyễn Minh Châu lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987). Chiến thuyền ngoài xa thuộc giai đoạn sáng tác thứ hai, tiêu biểu cho cảm hứng thế sự, cảm hứng triết luận về nhừng giá trị nhân bản đời thường của Nguyễn Minh Châu.
1. Truyện được tố chức xung quanh một “tình huống nhận thức” nhưng điều mà Phùng và Đẩu nhận ra không hoàn toàn giống nhau.
Trong loại hình tự sự, tình huống truyện gắn chặt với diền biễn của cốt truyện. Tình huống truyện có vai trò đặc biệt quan trọng đôi với việc thể hiện tính cách, tâm lí, số phận nhân vật. Tinh huông truyện làm nổi hình, nổi sắc nhân vật và những vấn đề tư tưởng của tác phẩm. Tài năng của nhà văn bộc lộ trong việc chọn và xử lí tình huống.
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa được tổ chức xung quanh “tình huống nhận thức”. Nếu tình huống nhận thức lại chú trọng cắt nghĩa giây phút con người bừng tỉnh thấu suốt chân lí. Ớ truyện này, điều mà Phùng và Đẩu nhận ra không hoàn toàn giông nhau.
Phùng được giao nhiệm vụ đi thực tế chụp bố sung một bức ảnh cảnh biển đẹp đẽ để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật. Nơi anh tới có phong cảnh thơ mộng. Chính sự kiên nhẫn, công phu của Phùng đã khiến anh chớp được cảnh trời cho toàn bộ khung cảnh vùng đầm phá miền Trung “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Phùng thỏa mãn với hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng trong bầu sương mù trắng một màu sửa và pha đôi chút màu hồng hồng. Phùng “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khác trong ngần của tâm hồn”. Nhưng rồi khi chiếc thuyền đâm thẳng và trước chỗ anh đứng thì một cảnh khắc nghiệt, lam lũ lấm lem của đời thường lộ rõ. Phùng nhận ra có một mâu thuẫn, nghịch lí đang tồn tại: giữa cái đẹp vẫn có cảnh sông tăm tối, cực nhọc. Chiếc thuyền trước mặt Phùng giờ đây được thay thế băng hình ảnh người đàn bà cam chịu đầy nhẫn nhục và người đàn ông hùng hổ, thô bạo. Phùng được sống trong nhiều cảm xúc mạnh, từ ngỡ ngàng, ngơ ngác đến cảm thông, rồi thấm thìa. Niềm tin của Phùng lung lay. Anh bắt đầu ngộ ra mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Đẩu - người bạn chiến đấu năm xưa cùng Phùng, nay là chánh án của một toà án cấp huyện. Người đàn bà được mời đến toả án đế giải quyết bi kịch gia đình. Đẩu kêu gọi hoà thuận và khuyên người đàn bà tội nghiệp li hôn để thoát khỏi những trận đòn nặng nhẹ của gã vũ phu kia. Đẩu nói với vẻ hào hứng của một người bảo vệ công lí. Anh tin thiện chí của mình sẽ thay đổi chiều hướng con đường đời của người phụ nừ làng chài khốn khổ. Nhưng anh nhầm. Anh chưa bao giờ thấu hết “nồi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Kiến thức sách vở cùng lòng tốt của Đẩu trở nên vô nghĩa lí trước cảnh huống nhân sinh đầy chua chát. Chỉ đến lúc này Đẩu mới hiểu người phụ nữ ấy dù bị đánh đập tàn bạo đến bao nhiêu đi nữa thì chị ta cũng buộc phải chấp nhận vì các con. Lí lẽ thực tế của người đàn bà làng chài đã xô đổ mớ lí thuyết đẹp đẽ củà Đẩu. Vị chánh án huyện vùng biển vỡ ra nghịch lí của cuộc sông.
2. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài. Nguyên nhân sâu xa là cảnh sống nghèo khổ, tăm tôi triền miên. Nguyên nhân sâu trực tiếp là thói vũ phu của người đàn ông.
Tình trạng bạo lực trong gia đình cậu bé Phác đem lại nỗi đau khổ nặng nề cho người phụ nữ và làm tổn thương tâm hồn của đứa trẻ con vụng dại. Người phụ nữ vừa bị hành hạ thể xác vừa bị giày vò tinh thần, vừa cam chịu vừa cảm thấy bất ổn và nơm nớp lo sợ con cái mình bị tổn thương. Đứa trẻ chứng kiến cảnh ngược đãi của cha mình, nên một mặt căm ghét cha và phản ứng mạnh mẽ trước hành động man rợ của con người ấy, mặt khác đánh mất niềm tin vào cuộc sông hiện tại.
Nguyễn Minh Châu không chỉ xót xa thương cảm người phụ nừ bất hạnh mà còn lên án sự tàn nhẫn thô bạo của người chồng trong một gia đình. Tác giả báo động về tình trạng bạo lực đang làm khô héo, rạng rỡ tâm hồn trong trẻo. Ông ngợi ca vẻ đẹp của tình mẫu tử, trân trọng khát vọng được' sống trong yêu thương, yên bình của trẻ em.
3. Thói vũ phu của người đàn ông làng chài được tác giả đặt dưới những phán xét rất khác nhau của Đẩu, Phùrig, Phác và người dàn bà.
Đẩu nhìn sự việc qua lăng kính pháp luật và thái độ thiện chí của mình. Phùng nhìn dưới góc của người nghệ sĩ thấm thìa lẽ đời sau khi thâm nhập cuộc sống. Người đàn bà từng trải và nhân hậu. Phác nhìn bằng con mắt thơ ngây. Cái nhìn hiện thực đa chiều ở Nguyễn Minh Châu tạo nên cấu trúc đối thoại cho thiên truyện. Nhà văn buộc chúng ta phải suy nghĩ, phải nhập cuộc.
4. Đoạn văn cuỗi tác phẩm gợi tả ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng “Tuy là ảnh đen trắng nhưng mồi lần ngắm kĩ tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sáng sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng”, “và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh... hoà lần đám đông”. Nguyễn Minh Châu để cho Phùng tự vẽ khuôn mặt bên trong của mình. Nhà văn tô đậm tâm trạng phức hợp ở nhân vật. Bức ảnh lịch ám ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh và cũng nhờ nó mà anh luôn được sống lại kỉ niệm, gặp lại màn sương hồng hồng thơ mộng. Qua tâm tư của Phùng, Nguyễn Minh Châu khẳng định: người nghệ sĩ cần gắn bó với cuộc đời, phải kiên trì tìm trong hiện thực vẻ đẹp của cuộc sông, đồng thời phải dũng cảm ghi lại những sô' phận, những cảnh đời còn lam lũ, cực khổ.
5. Qua sự đối lập giữa cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh mà phóng viên Phùng vừa thu vào Ống kính với hiện thực cuộc sống nhọc nhằn, cay cực của người dân chài, ta hiểu được dụng ý của Nguyễn Minh Châu.
Nguyễn Minh Châu muốn nhấn mạnh nghệ thuật không được phép xa cách con người, văn chương phải nói được tận cùng nỗi khổ của con người để mà từ đó tìm ra lồi thoát thực tế cho những cảnh đời đói nghèo tăm tối. Nguyễn Minh Châu không chấp nhận cái nhìn hời hợt bên ngoài, càng không chấp nhận kiểu người đứng ngoài cuộc, đứng ở trên cao để phán xét.
Nhan đề tác phẩm một mặt gợi ra khoảng cách giữa người nghệ sĩ và hiện thực, mặt khác cho ta biết cái mục tiêu cuối cùng mà người nghệ sĩ cần phải khám phá và chiếm lĩnh toàn diện. Nguyễn Minh Châu bàn tới trường nhìn, năng lực nhìn đời, nhìn người của nghệ sĩ. Nhan đề có ý nghĩa biểu tượng, bởi vì nó hình tượng hóa tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Minh Châu.
6. Giọng điệu trần thuật của tác phẩm đa dạng.
Có khách quan, ngạc nhiên khi thuật tả cảnh đời, cảnh biển; có lo âu khi tái hiện lời thoại của người đàn bà; có xót thương, căm phẫn khi chứng kiến cảnh người đàn ông ngược đãi vợ con; có day dứt khắc khoải khi thấy người phụ nừ chưa tìm được lối thoát nào sáng sủa, có trầm tĩnh khoan hoà và tỉnh táo...

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư