- Nhà nước chiếm hữu nô lệ có hình thức quân chủ và cộng hòa.
- Nhà nước phong kiến có hình thức phân quyền và tập quyền.
Nhà nước chủ nô.
Nhà nước chủ nô là nhà nước đầu tiên trong lịch sử, ra đời khi chế độ thị tộc tan rã. Cơ sở kinh tế cả nhà nước chủ nô là chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động và người nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ có hai giai cấp chính là nô lệ và chủ nô, ngoài ra còn có các tầng lớp thợ thủ công và những người lao động tự do khác. Chủ nô là một bộ phận thiểu số của xã hội nhưng nắm giữ trong tay toàn bộ tư liệu sản xuất của xã hội, còn nô lệ là lực lượng chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất nhưng chỉ là “công cụ biết nói” trong tay chủ nô, phụ thuộc hoàn toàn vào chủ nô. Tầng lớp thợ thủ công và những người lao động tự do có địa vị khác với người nô lệ nhưng vẫn trong quỹ đạo chi phối của chủ nô về chính trị, kinh tế, tư tưởng.
Nhà nước chủ nô xét về bản chất chỉ là công cụ bạo lực để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp chủ nô, duy trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của chủ nô, đàn áp nô lệ và những người lao động khác.
Nhà nước chủ nô thực hiện bảo vệ củng cố chế độ sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất, sản phẩm lao động và người nô lệ đàn áp sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp khác bằng bạo lực, củng cố hệ tư tưởng tôn giáo và sử dụng nó để thống trị về mặt tư tưởng đối với xã hội. Trong một chừng mực nhất định nhà nước chủ nô cũng tổ chức một số hoạt động kinh tế như quản lý đất đai, tổ chức khai hoang xây dựng và quản lý các công trình thuỷ nông.... Nhà nước chủ nô tiến hành chiến tranh xâm lược, bằng chiến tranh giai cấp chủ nô thực hiện khát vọng làm giàu, cướp bóc của cải, bắt tù binh bổ sung vào đội quân nô lệ và mở rộng phạm vi thống trị.
Bộ máy nhà nước chủ nô ở giai đoạn đầu còn đơn giản, mang nhiều dấu ấn của tổ chức thị tộc, chủ nô là người lãnh đạo và là nhà chức trách. Về sau bộ máy phát triển hơn trong đó cảnh sát, quân đội, toà án là những bộ phận chủ yếu cấu thành bộ máy nhà nước.
Hình thức chính thể: chủ yếu theo chính thể quân chủ, quân chủ chuyên chế, một số nước có hình thức chính thể cộng hoà.
Nhà nước phong kiến.
Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là chế độ sở hữu của giai cấp địa chủ phong kiến đối với tư liệu sản xuất mà chủ yếu là ruộng đất, người nông dân không có hoặc có rất ít ruộng đất nên phải phụ thuộc vào địa chủ phong kiến. Xã hội phong kiến có kết cấu giai cấp phức tạp, địa chủ và nông dân là hai giai cấp chính, ngoài ra trong xã hội còn có tầng lớp thợ thủ công, thương nhân... Giai cấp địa chủ phong kiến được chia ra nhiều đẳng cấp với những đặc quyền khác nhau về sở hữu ruộng đất, vua hay quốc vương là người có thứ bậc cao nhất trong thứ bậc, đẳng cấp của xã hội phong kiến. Các đẳng cấp phong kiến ở Châu Âu như công, hầu, bá, tử, nam... đều gắn liền với những mức độ khác nhau về số lượng điền trang, thái ấp mà họ chiếm hữu.
Địa vị người nông dân trong xã hội phong kiến có những ưu thế hơn so với địa vị người nô lệ nhưng chưa có sự khác biệt rõ rệt. Nông dân có kinh tế cá thể, được sở hữu đối với nhà cửa, công cụ lao động, ruộng đất ( thường với số lượng ít). Địa chủ phong kiến không có quyền định đoạt tính mạng người nông dân như trong chế độ chiếm hữu nô lệ. Người nông dân bị bóc lột dưới hình thức nộp tô bằng hiện vật (thóc gạo, vật nuôi...) hoặc bằng tiền, ngoài ra còn bị cưỡng bức lao dịch cho phong kiến. Mức độ phụ thuộc của người nông dân vào địa chủ phong kiến có khác nhau ở các nước và trong giai đoạn cụ thể của nhà nước phong kiến.
Về bản chất, nhà nước phong kiến là công cụ trong tay giai cấp địa chủ phong kiến để thực hiện chuyên chính đối với giai cấp nông dân, thợ thủ công và các tầng lớp lao động khác, là phương tiện duy trì địa vị kinh tế, bảo vệ lợi ích và sự thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất của địa chủ phong kiến, duy trì các hình thức bóc lột với nông dân và các tầng lớp lao động khác, đàn áp tư tưởng, tuyên truyền hệ tư tưởng phong kiến, nô dịch các tầng lớp lao động bằng hệ thống tổ chức tôn giáo. Nhà nước phong kiến có thực hiện những hoạt động kinh tế nhưng với mức độ hạn chế. Về đối ngoại, nhà nước phong kiến tiến hành chiến tranh xâm lược mở rộng đất đai – lãnh thổ, cướp bóc của cải và phòng thủ chống bành chướng, xâm lược.
Bộ máy nhà nước phong kiến mang nặng tính quân sự, tập trung quan liêu gắn liền với chế độ đẳng cấp phong kiến. Các cơ quan mang nặng tính cưỡng chế như: quân đội, nhà tù, toà án. Cấu trúc bộ máy nhà nước phong kiến bao gồm: Vua, Bộ máy giúp việc nhà vua ở trung ương ( triều đình) và hệ thống quan lại giúp nhà vua ở địa phương.
Hình thức chính thể phổ biến nhất của nhà nước phong kiến là chính thể quân chủ với những biến dạng khác nhau: chính thể quân chủ trung ương tập quyền, chính thể quân chủ phân quyền cát cứ, chính thể quân chủ đại diện đẳng cấp, chính thể quân chủ chuyên chế cực đoan.