Diễn biến: Cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam năm 1975 trải qua ba chiến dịch.
a. Chiến dịch Tây Nguyên (4/3 đến 24/3/1975)
- Tây Nguyên là một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự và chính trị, cả ta và địch đều chú ý và cố gắng nắm giữ. Nhưng hiện tại, do nhận định sai hướng tiến công của quản ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng, bố phòng có nhiều sơ hở. Căn cứ vào đó, Hội nghị Bộ chính trị tháng 10/1974 đã quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tấn công chu yếu trong năm 1975.
- Thực hiện chủ trương trên, ta tập trung lực lượng chủ lực mạnh với binh khí kỹ thuật hiện đại. Mở chiến dịch qui mô lớn ở Tây Nguyên với trận then chốt mở màn Buôn Mê Thuột.
- Đầu tháng 3/1975 quân ta tấn công quân địch nhiều nơi ở Tây Nguyên và 4/3/1975 đánh nghi binh ở Plâycu, Kontum, nhằm thu hút quân địch vào hướng đó. Ngày 10/31975 với 2 ngày chiến đấu, ta tiêu diệt toàn bộ quân địch và làm chủ thị xã Buôn Mê Thuột (11/3/1975).
- Ngày 12/3/1975 quân địch tập trung lực lượng mở cuộc phản công nhằm chiếm lại Buôn Mê Thuột. Nhưng tất cả các cuộc phản công của chúng đều bị đánh tan.
- Sau 2 đòn bị đánh đau (10 và 12/3) ở Buôn Mê Thuột, toàn bộ hệ thống phòng ngự của địch ở Tây Nguyên bị rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ của chúng bị rung chuyển, rối loạn, từ đó nẩy sinh những sai lầm lớn về chiến lược.
- Ngày 14/3 Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút khỏi Plâycu, Kontum và toàn bộ Tây Nguyên về giữ vùng Duyên hài Nam Trung Bộ, rồi tập trung lực lượng tái chiếm Buôn Mê Thuột. Ngày 16/3 quân ta được lệnh đánh chặn và truy kích địch trên đường chúng rút khỏi Tây Nguyên. Đến ngày 24/3, toàn bộ quân địch rút chạy, bị quân ta tiêu diệt. Chiến dịch Tây Nguyên kết thúc. Ta tiêu diệt toàn bộ quân đoàn 2 trấn giữ ở đây, giải phóng cả Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân.
- Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước sang giai đoạn mới: Từ cuộc tiến công chiến lược phát triển thành tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
b. Chiến dịch Huế - Đà Nẵng (21/3 đến 3/4/1975)
- Thấy được thời cơ chiến lược đến nhanh và rất thuận lợi, Bộ chính trị có quyết định kịp thời về giải phóng Sài Gòn và toàn Miền Nam ngay khi chiến dịch Tây Nguyên còn tiếp diễn.
- Muốn hoàn thành nhiệm vụ cơ bản đó, nhiệm vụ chiến lược trước mắt là tiến hành chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng.
- Phối hợp với Tây Nguyên, quân ta ở Quảng Trị đã đẩy mạnh tiến công và ngày 19/3 thì giải phóng toàn tỉnh. Địch lo sợ bỏ chạy về giữ Huế và Đà Nẵng, ngày 21/3 quân ta thọc sâu vào căn cứ địch, chặn các đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây địch trong thành phố.
- 10 giờ 30 phút ngày 25/3, quân ta tiến vào Huế, đến ngày hôm sau (26/3) giải phóng toàn bộ tỉnh Thừa Thiên - Huế. Trong cùng thời gian ta tiến vào giải phóng Thị xã Tam Kỳ (24/3) Quảng Ngãi (25/3) Chu Lai (26/3) tạo thêm một hướng uy hiếp Đà Nẵng từ phía Nam.
- Đà Nẵng, thành phố lớn thứ 2 ở miền Nam, căn cứ quân sự Liên hợp lớn nhất của Mĩ - ngụy, rơi vào thế cô lập. Quân ta từ ba phía Bắc - Tây - Nam tiến nhanh, áp sát thành phố, hơn 10 vạn địch bị dồn ứ ở đây trở nên hỗn loạn, mất hết khả năng chiến đấu. Chúng phải dùng máy bay di tản, cố vấn Mĩ và một phần lực lượng ngụy. Sáng ngày 29/3 quân ta từ các hướng tiến thẳng vào thành phố, đến 3 giờ chiều thì chiếm toàn bộ thành phố.
- Trong cùng thời gian với chiến địch Tây Nguyên và chiến dịch Huế - Đà Nẵng, từ cuối tháng 3 đầu tháng 4/1975, nhân dân ta ở các tỉnh ven biển Miền Trung, phía Nam Tây Nguyên và một số tỉnh ở Nam Bộ, có sự hỗ trợ của lực lượng trong địa phương và của quân chủ lực, đã nổi dậy đánh địch giành quyền làm chủ, các tỉnh ở miền Trung lần lượt được giải phóng. Từ ngày 14 đến 29/4/1975 các đảo thuộc quần đảo Trường Sa cũng được giải phóng.
c. Chiến dịch Hồ Chi Minh lịch sử (26/4 đến 30/4/1975)
- Sau một tháng tiến công và nổi dậy, quân dân ta đã giành toàn thắng trong chiến dịch Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, giải phóng hơn một nửa đất đai và một nửa dân số toàn miền Nam, chiếm giữ một khối lượng lớn vật chất, trang bị và phương tiện chiến tranh. Các lực lượng vũ trang của ta trưởng thành nhanh chóng.
- Trong khi đó, lực lượng của địch giảm sút nghiêm trọng, chúng phải lùi vào phòng thủ từ Phan Rang trở vào, Mĩ cũng đã hết sức giúp chính quyền Sài Gòn kéo dài “cơn hấp hối” bằng cách lập cầu hàng không viện trợ khẩn cấp cho chúng.
- Về phía ta, như Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 2/3/1975 đã nêu rõ:
“Thời cơ chiến lược mới đã đến, ta có điều kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam... phải tập trung nhanh nhất lực lượng binh khí, kỹ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được Bộ chính trị quyết định mang tên “Chiến dịch Hồ Chí Minh”(14/4/1975).
-Từ đầu tháng 4 trên mọi miền đất nước, nhân dân đã sống những ngày giờ hết sức sôi động và hào hùng.
- Cả dân tộc ta ra quân trong Mùa Xuân lịch sử và tinh thần “đi nhanh đến, đánh nhanh thắng” và với khí thế “thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng”.
Ngày 9/4 quân ta tiến công Xuân Lộc, một căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông. Tại đây diễn ra những trận chiến đấu ác liệt. Ngày 16/4 quân ta phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở Phan Rang. Ngày 21/4 toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy.
Trước việc tuyến phòng thủ Phan Rang, Xuân Lộc bị chọc thủng và việc thủ đô Phnôm Pênh mất vào tay quân giải phóng Campuchia (17/4), nội bộ Mĩ và chính quyền Sài Gòn thêm hỗn loạn.
- Ngày 18/4 tổng thống Mĩ ra lệnh di tản hết người Mĩ khỏi Sài Gòn. Ngày 21/4 quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Tất cả 5 cánh quân từ các hướng vượt qua luyến phòng thủ vòng ngoài của địch tràn vào Sài Gòn.
Ngày 28/4, các trận địa pháo của ta đồng loạt nã vào sân bay Tân Sơn Nhất và chiều hôm đó phi công ta dùng 5 máy bay chiến đấu phản lực A37 mở đợt tập kích vào máy bay của chúng.
- Đêm 28 rạng 29/4 tất ca các cánh quân của ta được lệnh đồng loạt tổng công kích vào trung tâm thành phố, đánh chiếm tất cả các cơ quan đầu não của địch. 9 giờ 30 phút ngày 30/4 Dương Văn Minh vừa lên làm tổng thống ngụy (28/4) kêu gọi ngừng hẳn để “điều đình giao chính quyền” nhằm cứu quân ngụy khỏi sụp đổ.
10 giờ 45 phút ngày 30/4 xe tăng tiến vào Dinh độc lập bắt sống toàn bộ ngụy quyền Trung ương, Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. Lúc 11 giờ 30 phút ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ tổng thống chính quyền Sài Gòn, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
- Thừa thắng sau giải phóng Sài Gòn, lực lượng vũ trang và nhân dân các tỉnh còn lại ở Nam Bộ nhất tề đứng lên tiến công và nổi dậy theo phương thức “Xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh” Đến ngày 2/5/1975 Nam Bộ và miền Nam được hoàn toàn giải phóng.
Như vậy với tốc độ “một ngày bằng 20 năm” chỉ trong vòng không đầy 2 tháng (4/3 đến 2/5/1975) phát huy sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị, quân dân ta đã giành được thắng lợi bởi ba trận đánh then chốt: Trận mở đầu đánh Buôn Mê Thuột giải phóng toàn bộ Tây Nguyên, trận thứ hai giai phóng Huế - Đà Nẵng quét sạch địch ở ven biển Miền Trung và trận kết thúc là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh còn lại ở Nam Bộ. Hơn một triệu quân ngụy và cả bộ máy ngụy quyền bị đập tan, chế độ thực dân mới được Mĩ dốc xây dựng qua 5 đời tổng thống bị sụp đổ.