Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Ngữ văn - Lớp 10
19/09/2016 02:50:43

Trình bày nét cơ bản về tác giả Nguyễn Du, giới thiệu ngắn gọn Truyện Kiều và giá trị của Truyện Kiều?

3 trả lời
Hỏi chi tiết
73.803
58
32
NoName.1139
19/09/2016 08:37:49
Nguyễn Du sinh ngày 3 tháng 1 năm 1766, mất năm 1820, tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn lạp hộ, Nam Hải điếu đồ, là một nhà thơ nổi tiếng, nhà văn hóa lớn thời Lê mạt, Nguyễn sơ ở Việt Nam, Danh nhân văn hoá thế giới. Ông được người Việt kính trọng tôn xưng là " Đại thi hào dân tộc".

Tác phẩm "Truyện Kiều" của ông được xem là một kiệt tác văn học, một trong những thành tựu tiêu biểu nhất trong văn học Việt Nam.

Nguyễn Du quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thông về vàn chương. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ Tiến sĩ, từng giữ chức tể tướng. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng làm quan to dưới triều Lê-Trịnh.

Nguyễn Du lớn lên trong hoàn cảnh thuận lợi và đầy đủ như thế không được bao lâu. Năm 9 tuổi, ông mồ côi cha, năm 12 tuổi lại mồ côi mẹ. Cùng với sự sụp đổ của chế độ Lê-Trịnh, dòng họ Nguyễn lừng lẫy hiển vinh cũng dần dần xiêu tán. Cho nên, tuy sinh trưởng trong gia đình quý tộc nhưng từ nhỏ, Nguyễn Du đã phải trải qua cuộc sống nhiều nỗi khổ sở, cơ cực như dân thường. Nhiều lúc ông lâm vào cảnh đói không cơm, rét không áo, ốm không thuốc, thậm chí không chốn nương thân.

Cuộc đời Nguyễn Du gắn liền với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là một thời đại đầy biến động với hai đặc điếm nồi bật: chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, phong trào nông dân nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn như cơn bão lớn quét sạch các tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh thối nát và đánh tan hai mươi vạn quân Thanh xâm lược.
 
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã một phen thay đổi sơn hà, làm lung lay ý thức hệ tư tưởng của nhiều người, trong đó có Nguyễn Du. Phong trào Tây Sơn thất bại, triều Nguyễn được thiết lập; nhà thơ đã hướng ngòi bút vào hiện thực vừa trải qua một cuộc bể dâu để ghi lại "Những điều trông thấy mà đau đớn lòng".

Trong suốt quãng đời lênh đênh lưu lạc, nhà thơ đã tiếp xúc với nhiều cảnh đời, nhiều con người và số phận khác nhau. Khi ra làm quan với nhà Nguyễn, ông được vua cử đi sứ Trung Quốc. Ông đã đi qua nhiều vùng đất rộng lớn, tiếp xúc với nền văn hóa Trung Hoa rực rỡ. Những biến động lớn lao của gia đình và xã hội đã tác động sâu sắc tới con người cùng sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du.

Nguyễn Du là con người có trái tim nhân hậu. Nhà thơ đã từng khẳng định: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Mộng Liên Đường chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng đã đề cao tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du đối với con người và cuộc đời: Lời văn tỏ ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi đau đớn đến đứt ruột, Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình tha thiết. Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy.

Sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Nguyễn Du đạt tới tầm cỡ của một thiên tài văn học ở cả lĩnh vực chữ Hán lẫn chữ Nôm, đặc biệt là ở giá trị bất hủ của Truyện Kiều. Về chữ Hán, Nguyễn Du có ba tập thơ: Thanh Hiên thị tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục, với tổng số 243 bài. về chữ Nôm, ông có nhiều tác phẩm nhưng tiêu biểu nhất là Truyện Kiều. Truyện Kiều không những có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà mà còn có vị trí quan trọng trong đời sông tinh thần của dân tộc.

Truyện Kiều
Truyện Kiều (tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ kinh điển trong Nền Văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu, dựa theo tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Tuy vậy, phần sáng tạo của Nguyễn Du hết sức lớn, mang ý nghĩa quyết định thành công của tác phẩm. Sự sáng tạo thể hiện từ nghệ thuật kể chuyện bằng thơ đến nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật, tả người, tả cảnh,... đều đạt tới trình độ điêu luyện.

Hoàn cảnh ra đời
Có thuyết nói Nguyễn Du viết Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc (1814-1820). Lại có thuyết nói ông viết trước khi đi sứ, có thể vào khoảng cuối Lê đầu Tây Sơn. Thuyết sau được nhiều người chấp nhận hơn. Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều được nhiều nơi khắc in và lưu hành rộng rãi. Hai bản in xưa nhất hiện còn là bản của Liễu Văn Đường (1871) và bản của Duy Minh Thị (1872), đều ở thời vua Tự Đức.

Truyện dựa theo bộ truyện văn xuôi Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân, lấy bối cảnh Trung Quốc thời vua Gia Tĩnh Đế đời nhà Minh (từ năm 1521 tới năm 1567). Có một số nhân vật như tổng đốc Hồ Tôn Hiến, nhân vật Từ Hải là có thật trong lịch sử.

Bản in khắc đầu tiên năm 1920 có tựa chính thức là Đoạn trường tân thanh, có nghĩa là "tiếng kêu mới về nỗi đau lòng đứt ruột".

Các nhân vật trong Truyện Kiều
- Vương ông (nghĩa là "ông họ Vương"): cha của Vương Thuý Kiều, Vương Thuý Vân và Vương Quan. Trong "Kim Vân Kiều truyện" hồi một nói ông tên là Vương Lưỡng Tùng, biểu tự là Tử Trinh nhưng trong hôn thư (văn ước kết hôn thời xưa) do Vương Thuý Kiều viết ở hồi năm thì lại ghi ông tên là "Vương Chương". Nhà ông ở Bắc Kinh.
- Vương bà (có nghĩa là "bà họ Vương", gọi theo họ của chồng): vợ của Vương ông. Hồi một của "Kim Vân Kiều truyện" nói bà họ Kinh nhưng trong hôn thư do Vương Thuý Kiều viết ở hồi năm lại ghi bà họ Hà.
- Thuý Kiều: họ tên đây đủ là Vương Thuý Kiều. Trưởng nữ của Vương ông, Vương bà, chị cả của Vương Thuý Vân và Vương Quan. Khi Thuý Kiều làm nữ tì trong Hoạn phủ được Hoạn phu nhân đặt cho tên là Hoa Nô. Khi Kiều vào ở trong Quan Âm các có đạo hiệu là Trạc Tuyền. Theo "Kim Vân Kiều truyện" thì cái tên Trạc Tuyền là do Thúc sinh đặt cho Thuý Kiều theo yêu cầu của Hoạn Thư.
- Thuý Vân: Họ tên đầy đủ là Vương Thuý Vân. Thứ nữ của Vương ông, Vương bà, em gái của Vương Thuý Kiều, chị hai của Vương Quan.
- Vương Quan: con trai út của Vương ông, Vương bà, em của Vương Thuý Vân và Vương Thuý Kiều.
- Đạm Tiên: Theo "Kim Vân Kiều truyện", Đạm Tiên có họ tên đây đủ là Lưu Đạm Tiên.
- Kim Trọng: Theo "Kim Vân Kiều truyện", Kim Trọng có biểu tự là Thiên Lý.
- Thằng bán tơ.
- Mã giám sinh (nghĩa là "giám sinh họ Mã"): Theo "Kim Vân Kiều truyện", Mã giám sinh có họ tên đầy đủ là Mã Quy,người mua Kiều bán cho Tú Bà.
- Tú bà (có nghĩa là "bà Tú"): Theo "Kim Vân Kiều truyện", Tú bà có họ tên đây đủ là Mã Tú. Chủ lầu xanh nơi Kiều bị bán vào lần 1.
- Sở Khanh: người đàn ông có tính xấu,dâm dục,lừa tình những cô gái chân yếu tay mềm
- Thúc sinh (nghĩa là "thư sinh họ Thúc"): Còn được gọi là "chàng Thúc", "Thúc sinh viên" (nghĩa là "sinh viên họ Thúc"), "Thúc lang" (nghĩa là "chàng Thúc"). Trong "Truyện Kiều" có câu "Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương". Theo "Kim Vân Kiều truyện" Thúc sinh có họ tên đầy đủ là "Thúc Thủ", biểu tự là Kỳ Tâm. Đã đem tiền chuộc Kiều khỏi lầu xanh (lần 1) và cưới nàng làm vợ lẽ.
- Hoạn thư (có nghĩa là "chị Hoạn"): vợ của Thúc sinh. Trong "Kim Vân Kiều truyện" Hoạn thư được gọi là "Hoạn tiểu thư" (nghĩa là "tiểu thư họ Hoạn) hoặc "Hoạn thị" (nghĩa là "họ Hoạn"). "Kim Vân Kiều truyện" và "Truyện Kiều" đều không nói nhân vật tên là gì.
- Hoạn phu nhân: mẹ của Hoạn thư.
- Thúc ông (nghĩa là "ông họ Thúc"): cha của Thúc sinh
- Khuyển: Theo "Kim Vân Kiều truyện", Khuyển có họ tên đầy đủ là Hoạn Khuyển.
- Ưng: Theo "Kim Vân Kiều truyện", Ưng có tên đầy đủ là Hoạn Ưng.
- Giác Duyên: ni cô Quan Âm các.
- Bạc bà (nghĩa là "bà họ Bạc"). Chủ lầu xanh nơi Kiều bị bán vào lần 2.
- Bạc Hạnh.
- Từ Hải: Một chỉ huy cướp biển, đối kháng với nhà Minh. Đã đem tiền chuộc Kiều khỏi lầu xanh (lần 2) và cưới nàng làm vợ, sau đó giúp Thúy Kiều báo thù những người đã hãm hại nàng cũng như đền ơn những người giúp đỡ Kiều.
- Hồ Tôn Hiến: Tên người này theo âm Hán Việt tiêu chuẩn hiện đại thì phải đọc là "Hồ Tông Hiến". Tổng đốc nhà Minh, đem quân triều đình đi tiếu phạt và giết được Từ Hải, bắt sống Thúy Kiều.

Giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều
Giá trị nội dung:
1. Giá trị hiện thực:
- Truyện Kiều là bản cáo trạng bằng thơ về một xã hội phong kiến đang trên đà mục nát, đầy rẫy sự bất công, tàn bạo. Phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời là cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỉ XIX (xã hội đồng tiền, xấu xa đồi bại và những bất công => dẫn chứng các nhân vật phản diện: Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến....). Phản ánh thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong xã hội, cho dù là người phụ nữ có nhan sắc => dẫn chứng Kiều: ko nắm được số phận của mình
2. Giá trị nhân đạo
- Ca ngợi tài năng, nhan sắc của người phụ nữ (đoạn Chị em Thúy Kiều): Một hai nghiêng nước nghiêng thành
- Đồng thời, ca ngợi tình yêu cao đẹp giữa Kim Trọng - Thúy Kiều
- Ca ngợi nhân phẩm con người: Nàng Kiều là người con gái thông minh, nhạy cảm, giàu tình yêu thương, giàu đức hi sinh, có ý thức về nhân phẩm, sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ phẩm giá nhưng lại luôn bị Xã hội phong kiến chà đạp. Đồng cảm với những khát vọng chân chính của con người: khát vọng về quyền sống, về tự do, về công lí, tình yêu, hạnh phúc.

Giá trị nghệ thuật
Truyện lấy nguồn từ truyện của Trung Quốc (Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân) nhưng Nguyễn Du đã có những sáng tạo, cách diễn đạt đầy mới mẻ.
1. Ngôn ngữ:
- Bài thơ viết dưới dạng văn học dân gian. Bên cạnh đó Nguyễn Du còn vận dụng linh hoạt thành công các thành ngữ, ca dao, các điển cố điển tích vào trong Truyện Kiều khiến cho bộ truyện Nôm đã trở thành một tập Đại thành ngôn ngữ của văn học dân tộc.
- Ngôn ngữ độc thoại được vận dụng tài tình để bộc lộ nội tâm nhân vật.
- Ngôn ngữ đối thoại thể hiện tinh tế tính cách và hoàn cảnh nhân vật.
- Ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tài hoa của Nguyễn Du.

2. Tả người
- Nhân vật chính diện: Ngòi bút ước lệ, ẩn dụ tượng trưng, dùng hình ảnh thiên nhiên tả người, là nhân vật lý tưởng hóa của Nguyễn Du (Kim Trọng, Thúy Kiều...)
- Nhân vật phản diện: Tả thực, là nhân vật hiện thực hóa của Nguyễn Du (Mã Giám Sinh...).

3. Tả cảnh
- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình sinh động, khắc họa rõ nét nội tâm nhân vật.
- Những sự vật, phong cảnh được miêu tả trong truyện đặc trưng cho văn hoc trung đại (mây, tuyết, hồ nước mùa thu....) => đẹp, sinh động.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng ký tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
14
36
NoName.1945
11/10/2016 13:08:59
Trải qua một cuộc bể dâu Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.nêu quan niệm sáng tác của nguyễn du và giá trị nội dung của truyện kiều
1
0
Ni Lin
15/02/2021 23:40:55

1. Tác giả.

         Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điển, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc thời Lê - Trịnh. Cha là Nguyền Nghiễm từng làm Tể tướng; anh là Nguyễn Khản đỗ Tiến sĩ, làm đại quan trong phù Chúa, được Trịnh Sâm trọng vọng. Nguyễn Du chi đỗ 'Tam trường, nhưng văn chương lỗi lạc".

         Quê hương ông vẫn lưu truyền câu ca:

"Bao giờ Ngàn Hống hết cây,

Sõng Rum hết nước, họ này hết quan".

         Nguyễn Du chi làm một chức quan nhỏ dưới thời Lê - Trịnh. Dưới thời Tây Sơn, Nguyễn Du lúc thì dạt về quẽ vợ ở Quỳnh Hải, Thái Bình; lúc thì lặn lội về xứ Hồng Lĩnh quê nhà. Ông trải qua  mườỉ năm gió bụi", có lúc ốm đau khóng có thuốc, mái lóc sớm bạc. Ông tự xưng là "Hổng Sơn liệp hộ" (người đi săn ở núi Hồng), "Nam Hải điếu đồ" (Người câu cá ở biển Nam Hải):

"Hồng Sơn cao ngất mấy tầng,

Đò Cài mấy trượng là lòng bây nhiên!".

         Năm 1802, Gia Long triệu Nguyền Du ra làm quan. Chi trong vòng hơn 10 năm, ông đã bước lên đinh cao danh vọng: làm Chánh sứ sang Trung Quổc (1813-1814). giữ chức Hữu Tham tri bộ Lễ. Năm 1820, lần thứ hai, ông lại được cử làm Chánh sứ sang Trung Quốc, nhưng chưa kịp đi thì bị bệnh và qua đời.

         Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du vô cùng rạng rỡ, để lại nhiều thơ chữ Hán và chữ Nôm. về chữ Hán có 3 tập thơ:

-  Nam trung tạp ngâm.

-  Bắc hành tạp lục.

-  Thanh Hiên thi tập.

Về thơ chữ Nôm có:

-  Truyện Kiều.

-  Văn chiêu hồn.

         Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, niềm tự hào của nhân dân ta, đất nước ta:

"Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du,

Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày ".

{"Kính gửi Cụ Nguyễn Du



 

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng bạn bè học sinh cả nước, đến LAZI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Câu hỏi Ngữ văn mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo