Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích

4 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
11.560
1
4
II. Đại thi hào Nguyễn Du là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của Nguyễn Du gắn liền với "Truyện Kiều", một trong những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Được viết dựa trên cốt truyện của "Kim Vân Kiều truyện", "Truyện Kiều" phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép nhân dân vào bước đường cùng. Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn từ "Truyện Kiều", song "Nỗi thương mình" vẫn thể hiện đầy đủ chủ đề của tác phẩm. . Sống trong thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, nhân vật chính Thúy Kiều bị ép phải bán mình cho Mã Giám Sinh chuộc cha và em trai, để rồi sau đó lại rơi vào chốn lầu xanh và buộc phải ra tiếp khách. Chính tình cảnh trớ trêu ấy đã làm nổi bật lên những phẩm chất cao quý của Kiều: dù phải sống trong chốn bùn nhơ nhưng nàng vẫn có ý thức sâu sắc về nhân cách, phẩm giá của bản thân:
"Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,

Những mình nào biết có xuân là gì."
Bị đẩy vào chốn bùn nhơ, phải đem tấm thân của mình để mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc, Kiều đau đớn, xót thương cho cái phận "sống làm vợ khắp người ta" của mình, nỗi nhục nhã ấy cứ nghĩ đến là đau lòng:
"Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa."
Bắt đầu từ cái “giật mình” đoạn thơ mở ra cả một bức tranh tâm trạng vô cùng ảm đạm. Không gian là lầu xanh vắng lặng khi khách làng chơi đã về hết, thời gian là lúc “tỉnh rượu, tàn canh” một thời điểm dành cho nhưng nghĩ suy sâu xa.Tại sao không phải là một thời điểm khác? Bởi vì triền miên trong những “cơn say, trận cười”, những “bướm lả ong lơi”, những khách làng chơi dập dìu tối ngày, chỉ đến khi tàn canh Kiều mới có thời gian để sống với tâm trạng thực của mình. Cái “giật mình” nói lên tất cả những nỗi niềm của Kiều: thảng thốt, ngạc nhiên, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình. Nàng cảm thấy chua chát, thương cho phận mình khi gặp phải cảnh ngộ trớ trêu, nhục nhã này, đây là ý thức trỗi dậy của một nhân cách cao đẹp. Cách điệp từ "mình" kết hợp với việc thay đổi nhịp thơ từ 3/ 3 sang 2/ 4/ 2 góp phần thể hiện rõ hơn sự cô đơn, trống trải đầy đau xót của Kiều. Nàng muốn vươn tới điều thánh thiện, nhưng lại phải ngụp lặn trong chốn bùn nhơ này. Việc sử dụng từ láy "xót xa" với âm "a" cuối câu đã tạo nên sự lan tỏa rộng rãi, kéo câu thơ chùng xuống, khi đọc lên, đọc giả cũng cảm nhận được rõ ràng hơn nỗi đau buồn, cô đơn sâu thẳm trong lòng Kiều, càng khiến người ta thêm thương tiếc cho nàng.
Sống trong chốn lầu xanh, hết tiếp kẻ đến lại tiễn người đi, những hồi ức tươi sáng ùa về trong lòng Kiều, sự đối lập với thực tại tăm tối đọa dày càng khiến nàng thấy nhục nhã, đau đớn hơn:
 
"Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân!"
Hình ảnh đối lập giữa quá khứ hạnh phúc "phong gấm rủ là" với hiện tại phũ phàng "tan tác như hoa giữa đường" hiện lên trước mắt Kiều, giày vò nàng, khiến nàng đau đến quặn lòng, tiếc thương, đau đớn vì cái sự thay thân đổi phận đầy éo le này. Trong lòng nàng vang lên những câu hỏi, đồng thời cũng là câu cảm thán, tất cả như xoáy xâu vào những nỗi đau sâu trong lòng nàng, nàng thật sự không dám tin rằng mình lại rơi vào cái thực tại đau đớn nhục nhã này. Phép so sánh "tan tác như hoa giữa đường" tạo liên tưởng bất ngờ: hiện tại mọi thứ đã đổi thay, Kiều không còn là đóa hoa được nâng niu trân trọng như khi xưa, mà đã trở thành một đóa hoa dại ven đường, mặc người vùi dập, số phận lênh đênh chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Phép so sánh trên kết hợp với việc tách từ, biến các thành ngữ "dày dạn gió sương", "bướm ong chán chường" thành "dày gió dạn sương" và "bướm chán ong chường" góp phần tăng cao nỗi khổ tâm, tuyệt vọng trong lòng Kiều, ngay cả chính mình, nàng cũng cảm thấy ghê sợ.
Sống trong cái hoàn cảnh nhơ nhớp này, càng lúc Kiều càng chán nản, muốn mặc kệ mọi diễn biến quanh mình:
"Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì."
Xuyên suốt đoạn trích, ta có thể thấy được điều mà Nguyễn Du muốn nhấn mạnh không chỉ là sự tố cáo và lột trần trực tiếp cái xã hội thối nát mà quan trọng hơn chính là sự đề cao giá trị con người, đề cao khát khao chính đáng về tình yêu và hạnh phúc. Do vậy, từ "xuân" không có nghĩa là mùa xuân, tuổi trẻ, mà chỉ hạnh phúc lứa đôi, tình yêu. Từ "xuân" kết hợp với việc vận dụng điển tích "mưa Sở mây Tần" và phép đối ấn tượng giữa "mặc người" với "những mình" đã miêu tả rõ hơn thái độ của Kiều: khi phải "sống làm vợ khắp người ta”, Kiều chỉ thấy nhục nhã, trơ lì và vô cảm, nàng thờ ơ, lạnh lùng đối với mọi thứ quanh mình. Từ đó, ta có thể thấy được sự ý thức sâu sắc về phẩm giá của Kiều, nàng là một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, sống thanh cao, tự biết giữ gìn nhân cách của mình, chính điểm này khiến Nguyễn Du và cả những đọc giả của "Truyện Kiều" càng thêm yêu thương, trân trọng Kiều.
Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngư bình dân , Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng đầy xót xa, cay đắng tủi nhục, cùng với sự ý thức cao về nhân cách của Kiều trong cảnh dọa đày chốn lầu xanh. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.
Thông qua việc thể hiện nỗi đau đớn, cũng như phẩm chất cao quý "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" của Kiều khi phải sống trong chốn lầu xanh nhơ nhuốc, "Nỗi thương mình" mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như "Truyện Kiều" đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Nguyễn Nhật Thúy ...
15/04/2018 21:08:00
II. Nhà thơ đã thể hiện thật chân tình tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính lòng mình:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm thi chỉ khi tỉnh rượu, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với mình. Lúc khách làng chơi đã ra về hết, đêm rất khuya, chỉ còn một mình Kiều đối diện với ngọn đèn chong.
Nhịp thơ 3/3 như gợi từng bước đi chậm chạp của thời gian. Thời gian và không gian vắng lặng, cô liêu càng gợi nỗi niềm cay đắng, xót xa trong dạ người con gái đang lênh đênh, lưu lạc nơi đất khách.
Đến câu thứ hai, nhịp thơ thay đổi thành 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật minh kết. hợp với cách ngắt nhịp đột ngột diễn tả tâm trạng thảng thốt của Thúy Kiều. Từ mình mang thanh bằng nhưng không gợi sự nhẹ nhõm mà gợi cảm giác nặng nề bởi nó được lặp lại tới ba lẩn trong một câu thơ có nhịp điệu thổn thức, như tiếng nấc nghẹn ngào khi cố ghìm tiếng khóc.
Thúy Kiều giật mình sợ hãi trước sự đổi thay ghê gớm của số phận và tình cảm thảm hại của mình lúc này. Hai câu thơ tả tâm lí trên có thể coi là tuyệt bút. Nhịp điệu, âm hưởng và phép điệp từ kết hợp hài hòa, tự nhiên đã diễn tả thật chính xác tâm trạng trĩu nặng sầu thương của Thúy Kiều. Đêm khuya thanh vắng, nỗi sầu thương ấy như hiện rõ thành hình, thành khối là Thúy Kiều bằng xương bằng thịt. Đọc hai câu thơ trên, ai cũng phải ngậm ngùi rơi lệ.
Nỗi thương mình là cảm xúc bao trùm trong đoạn trích. Thúy Kiều buộc phải xa cha mẹ, xa tổ ấm để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gặp ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, vô định. Nàng chấp nhận: Thôi đành nhắm mắt đưa chân, để xem con tạo xoay vần đến đâu nhưng không thể ngờ rằng mình lại rơi vào chốn hang hùm đầy những kẻ bán thịt buôn người trâng tráo và đê tiện. Nàng đang phải sống trong cảnh Chán trời góc biển bơ vơ, không nơi nương tựa, không người an ủi, vỗ về, chia sẻ cho vơi bớt nỗi đau cô độc giữa lũ quỷ mặt người nên Kiều có cảm giác mình lại thương mình xót xa là vậy!
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở mức “đọc” được tâm trạng Thúy Kiều mà sâu hơn thế, thi sĩ thực sự rung động trước nỗi khổ tâm của nàng, đồng thời truyền sự rung động mãnh liệt ấy đến trái tim, khối óc người đọc, tạo nên mối dây đồng tình, đồng điệu.
Thúy Kiều cay đắng nghĩ tới sự tương phản ghê gớm giữa quá khứ tươi đẹp, hạnh phúc và hiện thực đen tối, phũ phàng:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Nàng nhớ lại cảnh sống quý phái, sang trọng khi còn ở nhà với cha mẹ trước lúc xảy ra tai họa và thương tiếc thân mình vì vùi dập tan tác như hoa giữa đường. Những hình ảnh, từ ngữ đối lập đã đặc tả tâm trạng đau đớn, tủi hổ ê chề của Kiều. Quá khứ đối lập hiện tại một cách khốc liệt. Dĩ vãng tươi đẹp chỉ được gợi lên qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, còn hiện tại đen tối được nhắc đến liên tiếp trong nhiều câu thơ. Trước kia, Kiều được nâng niu quý trọng bao nhiêu thì bây giờ nàng bị vùi dập phũ phàng bấy nhiêu. Sao là từ nghi vấn nhưng lại mang tính chất cảm thán, vừa được dùng trong hình thức đối vừa được dùng ở hình thức điệp: Khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao kết hợp với các thành ngữ mà từ ghép, từ láy được xé lẻ rồi đan chéo vào nhau như: dày gió dạn sương, bướm chán ong chường tạo nên giọng thơ mà nỗi đau đớn ê chề như thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đằng sau những ngôn từ, hình ảnh ước lệ hoa mĩ ấy là cơn uất hận không nguôi, là những câu hỏi day dứt, dằn vặt muốn vang vọng tới trời xanh. Bất công thay, trớ trêu thay là Trời già tai ác! Thực ra, tạo hóa chẳng nỡ đày đọa Thúy Kiều - người con gái tài sắc vẹn toàn, mà chính là các thế lực tàn ác trong xã hội đã dìm nàng xuống bùn đen. Tuy nhiên, thái độ của Kiều là không buông mình theo dòng đục, bởi nàng cảm nhận sâu sắc về phẩm giá của mình và nỗi tủi nhục của người lương thiện bị vùi dập, đọa đày.
Tác giả tả tâm trạng của Kiều ở chốn lầu xanh:
Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh có đủ phong, hoa, tuyết, nguyệt, tượng trưng cho vẻ đẹp bốn mùa như: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Nhưng trước những cảnh đẹp đó, Kiều dửng dưng, thờ ơ bởi con tim nàng đã bị nỗi đau khổ quá mức làm cho giá lạnh.
Ở lầu xanh cũng có đủ các thú vui như cầm, kì, thi, họa, nhưng đối với Kiều thì cảnh vật, con người và những thú vui ấy giờ đây đối với nàng đều trở nên vô nghĩa.
1
1
Nguyễn Tấn Hiếu
15/04/2018 21:09:08
Đại thi hào Nguyễn Du là một thiên tài văn học, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của Nguyễn Du gắn liền với "Truyện Kiều", một trong những tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Được viết dựa trên cốt truyện của "Kim Vân Kiều truyện", "Truyện Kiều" phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép nhân dân vào bước đường cùng. Tuy chỉ là một đoạn trích ngắn từ "Truyện Kiều", song "Nỗi thương mình" vẫn thể hiện đầy đủ chủ đề của tác phẩm. . Sống trong thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, nhân vật chính Thúy Kiều bị ép phải bán mình cho Mã Giám Sinh chuộc cha và em trai, để rồi sau đó lại rơi vào chốn lầu xanh và buộc phải ra tiếp khách. Chính tình cảnh trớ trêu ấy đã làm nổi bật lên những phẩm chất cao quý của Kiều: dù phải sống trong chốn bùn nhơ nhưng nàng vẫn có ý thức sâu sắc về nhân cách, phẩm giá của bản thân:
"Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,…
Những mình nào biết có xuân là gì."
Bị đẩy vào chốn bùn nhơ, phải đem tấm thân của mình để mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc, Kiều đau đớn, xót thương cho cái phận "sống làm vợ khắp người ta" của mình, nỗi nhục nhã ấy cứ nghĩ đến là đau lòng:
"Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa."
Bắt đầu từ cái “giật mình” đoạn thơ mở ra cả một bức tranh tâm trạng vô cùng ảm đạm. Không gian là lầu xanh vắng lặng khi khách làng chơi đã về hết, thời gian là lúc “tỉnh rượu, tàn canh” một thời điểm dành cho nhưng nghĩ suy sâu xa.Tại sao không phải là một thời điểm khác? Bởi vì triền miên trong những “cơn say, trận cười”, những “bướm lả ong lơi”, những khách làng chơi dập dìu tối ngày, chỉ đến khi tàn canh Kiều mới có thời gian để sống với tâm trạng thực của mình. Cái “giật mình” nói lên tất cả những nỗi niềm của Kiều: thảng thốt, ngạc nhiên, bẽ bàng, xót xa cho thân phận của mình. Nàng cảm thấy chua chát, thương cho phận mình khi gặp phải cảnh ngộ trớ trêu, nhục nhã này, đây là ý thức trỗi dậy của một nhân cách cao đẹp. Cách điệp từ "mình" kết hợp với việc thay đổi nhịp thơ từ 3/ 3 sang 2/ 4/ 2 góp phần thể hiện rõ hơn sự cô đơn, trống trải đầy đau xót của Kiều. Nàng muốn vươn tới điều thánh thiện, nhưng lại phải ngụp lặn trong chốn bùn nhơ này. Việc sử dụng từ láy "xót xa" với âm "a" cuối câu đã tạo nên sự lan tỏa rộng rãi, kéo câu thơ chùng xuống, khi đọc lên, đọc giả cũng cảm nhận được rõ ràng hơn nỗi đau buồn, cô đơn sâu thẳm trong lòng Kiều, càng khiến người ta thêm thương tiếc cho nàng.
Sống trong chốn lầu xanh, hết tiếp kẻ đến lại tiễn người đi, những hồi ức tươi sáng ùa về trong lòng Kiều, sự đối lập với thực tại tăm tối đọa dày càng khiến nàng thấy nhục nhã, đau đớn hơn:
 
"Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân!"
Hình ảnh đối lập giữa quá khứ hạnh phúc "phong gấm rủ là" với hiện tại phũ phàng "tan tác như hoa giữa đường" hiện lên trước mắt Kiều, giày vò nàng, khiến nàng đau đến quặn lòng, tiếc thương, đau đớn vì cái sự thay thân đổi phận đầy éo le này. Trong lòng nàng vang lên những câu hỏi, đồng thời cũng là câu cảm thán, tất cả như xoáy xâu vào những nỗi đau sâu trong lòng nàng, nàng thật sự không dám tin rằng mình lại rơi vào cái thực tại đau đớn nhục nhã này. Phép so sánh "tan tác như hoa giữa đường" tạo liên tưởng bất ngờ: hiện tại mọi thứ đã đổi thay, Kiều không còn là đóa hoa được nâng niu trân trọng như khi xưa, mà đã trở thành một đóa hoa dại ven đường, mặc người vùi dập, số phận lênh đênh chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Phép so sánh trên kết hợp với việc tách từ, biến các thành ngữ "dày dạn gió sương", "bướm ong chán chường" thành "dày gió dạn sương" và "bướm chán ong chường" góp phần tăng cao nỗi khổ tâm, tuyệt vọng trong lòng Kiều, ngay cả chính mình, nàng cũng cảm thấy ghê sợ.
Sống trong cái hoàn cảnh nhơ nhớp này, càng lúc Kiều càng chán nản, muốn mặc kệ mọi diễn biến quanh mình:
"Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì."
Xuyên suốt đoạn trích, ta có thể thấy được điều mà Nguyễn Du muốn nhấn mạnh không chỉ là sự tố cáo và lột trần trực tiếp cái xã hội thối nát mà quan trọng hơn chính là sự đề cao giá trị con người, đề cao khát khao chính đáng về tình yêu và hạnh phúc. Do vậy, từ "xuân" không có nghĩa là mùa xuân, tuổi trẻ, mà chỉ hạnh phúc lứa đôi, tình yêu. Từ "xuân" kết hợp với việc vận dụng điển tích "mưa Sở mây Tần" và phép đối ấn tượng giữa "mặc người" với "những mình" đã miêu tả rõ hơn thái độ của Kiều: khi phải "sống làm vợ khắp người ta”, Kiều chỉ thấy nhục nhã, trơ lì và vô cảm, nàng thờ ơ, lạnh lùng đối với mọi thứ quanh mình. Từ đó, ta có thể thấy được sự ý thức sâu sắc về phẩm giá của Kiều, nàng là một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, sống thanh cao, tự biết giữ gìn nhân cách của mình, chính điểm này khiến Nguyễn Du và cả những đọc giả của "Truyện Kiều" càng thêm yêu thương, trân trọng Kiều.
Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngư bình dân , Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng đầy xót xa, cay đắng tủi nhục, cùng với sự ý thức cao về nhân cách của Kiều trong cảnh dọa đày chốn lầu xanh. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình.
Thông qua việc thể hiện nỗi đau đớn, cũng như phẩm chất cao quý "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn" của Kiều khi phải sống trong chốn lầu xanh nhơ nhuốc, "Nỗi thương mình" mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như "Truyện Kiều" đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.
0
0
Kha Trần
11/05/2022 19:20:43
Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×