LH Quảng cáo: lazijsc@gmail.com

Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích bài thơ thu ẩm của nguyễn khuyến

phân tích bài thơ thu ẩm của nguyễn khuyến
1 trả lời
Hỏi chi tiết
509
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Bài thơ "Thu Ẩm" của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, được viết vào thế kỷ 19. Bài thơ này thể hiện tình yêu và tận hưởng cuộc sống của nhà thơ trong mùa thu.

Bài thơ được chia thành 6 đoạn với tổng cộng 36 câu thơ. Nguyễn Khuyến sử dụng ngôn ngữ tươi đẹp, hình ảnh tươi sáng và tinh tế để miêu tả cảnh vật và tâm trạng của mình.

Đầu tiên, bài thơ mở đầu bằng việc miêu tả cảnh vật mùa thu với những hình ảnh như "cánh đồng vàng rực", "cánh đồng hoa vàng rực rỡ". Đây là những hình ảnh tươi sáng và rực rỡ, tạo nên một không gian thơ mộng và yên bình.

Tiếp theo, nhà thơ miêu tả những hoạt động của mình trong mùa thu. Ông tận hưởng những khoảnh khắc yên tĩnh, như "ngồi đọc sách", "ngắm cảnh", "ngồi uống rượu". Những hoạt động này tạo ra một không gian thư giãn và tĩnh lặng, giúp ông thư thái và tận hưởng cuộc sống.

Bên cạnh đó, nhà thơ cũng miêu tả tâm trạng của mình trong mùa thu. Ông cảm nhận được sự thanh tịnh và sự hài lòng trong lòng mình. Ông viết: "Lòng tôi thanh tịnh như nước suối", "Tôi hài lòng như chim hót". Những câu thơ này thể hiện sự yêu thích và hài lòng của nhà thơ với cuộc sống và mùa thu.

Cuối cùng, bài thơ kết thúc bằng việc miêu tả cảnh hoàng hôn trong mùa thu. Nhà thơ viết về "mặt trời lặn", "bầu trời đỏ rực". Đây là những hình ảnh đẹp và lãng mạn, tạo ra một cảm giác hoàn hảo cho bài thơ.

Tổng thể, bài thơ "Thu Ẩm" của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm tuyệt vời về mùa thu. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh tinh tế để miêu tả cảnh vật và tâm trạng của mình trong mùa thu. Bài thơ này mang lại một cảm giác yên bình và tĩnh lặng, và khơi gợi sự tận hưởng cuộc sống và tình yêu với thiên nhiên.
2
0
Tr Hải
01/11/2023 12:34:28
+5đ tặng

Thu ẩm có nghĩa là mùa thu uống rượu. Đây là một trong ba bài thơ Nôm nói về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến: Thu điếu (Mùa thu câu cá), Thu vịnh (Mùa thu làm thơ), Thu ẩm (Mùa thu uống rượu). Chùm thơ này là dáng thu, hồn thu của đồng bằng Bắc Bộ thời xưa. Mỗi bài thơ mang những dáng thu riêng và những nét tâm tình riêng. Thấm đượm vào cảnh vật là tâm trạng băn khoăn, u uất của nhà thơ trước tình cảnh đất nước rơi vào tay giặc.

Dáng thu trong Thu vịnh thăm thẳm, xa vời, quen mà lạ. Trời thu thì xanh ngát những mấy từng cao; khóm tre thu nhỏ lại trong hinh ảnh cần trúc, sương như khói phủ thành tầng trên mặt nước, song thưa để mặc bóng tràng vào, hoa năm nay bỗng thành hoa năm ngoái, tiếng ngỗng thảng thốt, mơ hổ… Hồn thu như lắng chìm vào bôn trong, ẩn chứa ở chiều sâu.

Dáng thu, hồn thu ở bài Thu điếu lại chất chứa trong sự thu nhỏ và lặng im của cảnh vật: chiếc thuyền câu bé tẻo teo, nước biếc trên mặt ao chỉ gợn tí, lá vàng khẽ rơi vèo không thành tiếng, tiếng cá đớp động rất nhẹ dưới chân bèo. Tất cả đều im lìm, tĩnh mịch. Tưởng chừng như ông câu cũng hoá đá trong tư thế tựa gối ôm cần. Tâm tư cụ Tam Nguyên ngụ trong sự chờ đợi mỏi mòn giữa không khí yên lặng gần như tuyệt đối.

Trở lại với hai bài thơ thu kia mấy dòng như vậy là có ý so sánh đế nhìn được rõ hơn dáng thu, hồn thu và tâm tư nhà thơ trong bài Thu ẩm này, ở đây, dáng thu, hồn thu và cả tâm tư nhà thơ có khác.

Cảnh vật vẫn là những cảnh vật quen thuộc. Từ nhà, từ vườn của cụ Tam Nguyên nhìn ra cánh đồng, cái ao, rặng tre, hàng giậu, ngõ xóm quanh co, hun hút, trời xanh trên đầu, khói phủ mặt nước, bóng trăng trong ao. Khác một chút là ở đây, Nguyễn Khuyến không còn là nhà thơ, là ông câu mà là ông già khề khà chén rượu giải sầu. Nhưng cũng chính vì cái khác ấy mà cảnh vật dường như biến đổi, đầy bất ngờ và thú vị .

Hai câu đề:

Ba gian nhà cỏ thấp le te,

Ngõ tối đêm sâu, đóm lập loè.

Nhà tranh mà gọi là nhà cỏ thì giá trị đã hạ xuống một bậc nhưng chữ nghĩa khác nhau chưa mấy. Nhưng thấp le te thi đã rõ ra là lụp xụp và chẳng còn lành lặn, mái tranh đã rách nát, xác xơ đổi dạng. Tiếp theo, ngõ tối và đêm sâu là cảnh bình thường nhưng ánh lửa đom đóm lập loè lúc tối, lúc sáng làm cho ngõ tối và đêm sâu cũng biến dạng.

Hai câu thực:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.

Sương thu lớt phớt như làn khói mỏng phủ lên bờ giậu, khiến cho rặng cây cũng nhạt bớt màu đêm. Đặc biệt tài tình là hình ảnh mặt ao lăn tăn gợn sóng, lóng lánh bóng trăng. Bóng trăng trên mặt nước lúc dồn lại, lúc loe ra, biến dạng liên tiếp.

Hai câu luận:

Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,

Mắt lão không vầy cũng đỏ hoe.

Nguyễn Khuyến tả cảnh trời và cảnh mình. Dường như bầu trời và con người đều bị một thế lực vô hình nấo đó làm cho biến đổi: Da trời không biết ai nhuộm mà xanh ngắt, mắt mình không vầy sao cũng đỏ hoe? Hay là do say rượu ? Say rượu cũng thường đỏ mắt. Chữ ai trong câu thơ lấp lửng một mối hoài nghi lấp lửng nhưng không vô ý. Đây cũng là biểu hiện tâm trạng của nhà thơ chăng? Hay là nó cũng cùng một mạch với cảm nhận hoa năm nay mà nhìn ra hoa năm ngoái và nghe tiếng ngỗng văng vẳng trên không mà giật mình tự hỏi là ngỗng nước nào ? Tâm tư nhà thơ trĩu nặng trước cảnh đất nước bị lũ giặc ngoại xâm giày xéo mà mình thì đau đớn, day dứt khồng nguôi.

Cuối cùng là tửu lượng của nhà thơ cũng chẳng còn bình thường: Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy, Chỉ dăm ba chén đã say nhè. Tại sao cảnh vật lại có sự biến hình đổi dạng như thế? Do người nhìn say rượu chăng bởi khi say thì nhìn một hoá thành hai, thành ba hoặc nhạt nhoà tất cả. Sự vật biến đổi hình dáng, màu sắc, đường nét rối lên, nhoè ra, chập lại, lảo đảo như say.

Âm thanh bài thơ cũng theo điệu ấy. Rõ nhất và cũng bất ngờ nhất, thú vị nhất là ở các từ: le te, lập loè, loe, đỏ hoe, say nhè. Tất cả các từ quy vào âm chủ đạo là e: từ nhè, say nhè mà ra rồi nhoè ra thành nguyên âm đôi oè (lập /oè), oe (loe, hoe), các vần này cũng lảo đảo say theo, say mạnh hơn. Cảnh vật cũng như say: ánh sáng đom đóm hoá lập loè, bóng trăng chập chờn loe ra theo làn sóng, mắt người tự nhiên cũng đỏ hoe. Trong câu: Làn ao lóng lánh bóng trăng loe có đến bốn tiếng có phụ âm l nối tiếp nhau, càng làm tăng gấp bội cái cảm giác ngửa nghiêng, chao đảo không chĩ ở bóng trăng mà ở cả mặt ao, làn nước và từ đó lan toả ra toàn bài để rồi kết thúc bằng hai chữ say nhè.

Nhà thơ một mình đối diện với bầu rượu trong đêm thu vắng. Sau dăm ba chén, hơi men đã khơi dậy tâm tư. Nỗi xúc động sâu xa trong tâm hồn nhà thơ thấm vào cảnh vật, đồng điệu với dáng thu, hồn thu. Cái hay, cái tài của bài thơ Thu ẩm là ở đó. Nhà thơ buồn bã, day dứt không nguôi trước vận nước rối ren, đành mượn vài chén rượu giải khuây nhưng càng uống lại càng thấy nỗi niềm đó hiện ra rõ rệt hơn, làm lảo đảo đến cả cảnh vật đêm thu. Đã có lúc không uống rượu và tâm trạng dường như vui hơn, cụ Tam Nguyên tự cười mình và cũng thấy mình chuếnh choáng: Khấp khểnh ba chân dở tĩnh say kia mà.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Gia sư Lazi Gia sư