Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Chức năng thứ nhất này là chức năng về mặt kí hiệu hoá các tư tưởng hệt như mối quan hệ giữa cái biểu hiện – cái được biểu hiện trong lí thuyết của tín hiệu học hiện đại. Trong mối quan hệ này, tư tưởng và tư duy là cái được biểu hiện còn ngôn ngữ là cái biểu hiện. Chính nhờ có ngôn ngữ mà thực tại được phân cắt ra thành các khái niệm (mà cái biểu hiện của nó là các từ, ngữ). Nếu không có ngôn ngữ thì con người không có một phương tiện này để phân cắt thực tại ra các khái niệm. Chính các từ, ngữ định danh của một ngôn ngữ đã cố định hoá các ý tưởng về thực tại của con người vào các khái niệm cụ thể.
Vd: Khái niệm "cái bàn" và từ bàn
Trong tiến trình phát triển nhận thức của loài người, đầu tiên, các từ có nội dung nghèo nàn và mờ nhạt. Nhưng do ảnh hưởng của tiến trình văn hoá nhân loại mà các từ dần dần được cấp thêm những nét nghĩa tinh tế hơn cho phù hợp với tư duy của con người về sự vật mà từ phản ánh. Trong tiến trình này, từ chỉ còn là một cái vỏ – nơi để đổ đầy tư duy của chúng ta về một sự vật cụ thể.
Mối quan hệ giữa tư duy và ngôn ngữ thường được các nhà logic học hình dung theo 3 cấp độ sau đây:
CĐBHĐể đáp ứng được các nhu cầu giao tiếp của xã hội, loài người đã tạo ra và thiết lập rất nhiều các hệ thống tín hiệu khác nhau bên cạnh hệ thống tín hiệu ngôn ngữ. Có những hệ thống tín hiệu có thể vượt qua các biên giới quốc gia, các ranh giới của thể chế chính trị để phục vụ loài người (Ví dụ: hệ thống kí hiệu hoá học, toán học)… Nhưng người dùng chúng lại rất chọn lọc (Ví dụ: ít nhất phải có trình độ học vấn nhất định, hoặc phải là những nhà chuyên môn có trình độ cao). Tính chọn lọc cao như vậy là xa lạ với ngôn ngữ từng tộc người (ngôn ngữ tự nhiên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội, trình độ học vấn… mà phục vụ cộng đồng một cách vô tư).
Như vậy, khái niệm vạn năng của ngôn ngữ phải được hiểu là một phương tiện không kén người dùng. Vạn năng có nghĩa là sự phổ biến và phổ thông (phổ cập). Đó là nghĩa về số lượng.
Nghĩa thứ hai của vạn năng là nghĩa về chất lượng của phương tiện giao tiếp: Ngôn ngữ có thể chuyển tải được tất cả các nội dung thông tin khác nhau mà người nói có nhu cầu (từ việc bộc lộ cảm xúc, thái độ của người nói đến những nhu cầu tinh tế về tình cảm; đến những nhu cầu về khuyến lệnh (request) của người nói với người nghe; đến những nhu cầu về trao đổi các kinh nghiệm chinh phục thiên nhiên hoặc truyền bá tri thức)… Trong khi đó, những phương tiện khác chỉ đáp ứng được một phần nào đó rất nhỏ những nhu cầu về bộc lộ và giao tiếp của con người.
Tóm lại, ngôn ngữ là một phương tiện giao tiếp vạn năng, bởi vì:
– Về mặt số lượng: Nó phục vụ đông đảo các thành viên trong cộng đồng;
– Về mặt chất lượng: Nó giúp cho các thành viên trong cộng đồng có thể bộc lộ hết các nhu cầu giao tiếp.
3. Các quan điểm về các kiểu chức năng của ngôn ngữNgôn ngữ học đại cương tách chức năng giao tiếp vạn năng của ngôn ngữ ra thành nhiều kiểu chức năng nhằm mô tả triệt để hơn cấu trúc của ngôn ngữ trong đời sống cộng đồng. Tuỳ thuộc sự phát triển của nhận thức ngôn ngữ học mà người ta có những cách phân chia và gọi tên các chức năng xã hội của ngôn ngữ một cách khác nhau. Có thể chia các quan niệm về mặt chức năng ngôn ngữ thành 3 thời kì lớn sau đây:
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |