- Nêu được vấn đề văn học có những ý kiến khác nhau.
- Phân tích được ưu điểm và nhược điểm của những ý kiến khác nhau về vấn đề.
- Trình bày được quan điểm của bản thân về vấn đề, làm rõ sự tương đồng và khác biệt giữa ý kiến của bản thân với các ý kiến đã có.
- Tạo được sự đồng thuận tích cực giữa bản thân với những người tham gia thảo luận.
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Mẫu 1
Quan Âm Thị Kính là vở chèo cổ có sức sống lâu bền trong dân gian, vớ chèo trụ vững với thời gian là tác giả đã xây dựng thành công chân dung người phụ nữ với những tính cách trái ngược với xã hội phong kiến bấy giờ. Bởi vậy khi đọc hay xem vở chèo này: Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Thị Mầu là một cô gái trẻ đẹp được thể hiện bằng một thứ ngôn ngữ Chèo rất đặc trưng, đa dạng, phong phú. Thị Mầu là biểu tượng của khát vọng tình yêu, là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt của tình yêu đối với những trói buộc khắt khe, vô nhân đạo của lễ giáo phong kiến khác với số đông nhân vật nữ chính khi ra trò đều mang những nét chung của tính cách được giáo dục trong nếp lễ giáo gia đình phong kiến với nền luân lý Nho gia. Nhân vật Mầu xuất hiện đã thu hút người nghe, người xem qua lời giới thiệu độc đáo. Thị Mầu là hình tượng khiến người tiếp nhận có ấn tượng đậm nét với vẻ ngoài của nhân vật. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Không chỉ bộc lộ cảm thức về thân phận, tính cách bản năng. Họ khao khát được yêu – một tình yêu chân thành, và ở một chừng mực nhất định, chèo đã hé lộ những khát khao tính dục từ phía người phụ nữ - một dục vọng hết sức con người. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Khi lớn lên phải được tự do tìm hiểu, yêu đương và phải lấy người mình yêu. Nhưng đối lập với quyền ấy trong xã hội phong kiến là một lớp sơn đạo đức giả tạo của chế độ hà khắc để trói buộc bao người phụ nữ phải tuân theo “tam tòng”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” chứ không được lựa chọn tình yêu và hạnh phúc của riêng mình. Ý thức tự do trong tình yêu bộc lộ ở lời nhủ mình và khuyên chị em chớ nghe họ hàng. Sự thật có biết bao người con gái đau khổ, bất hạnh vì hôn nhân không tình yêu bởi hệ luật ép duyên. Nên lời Thị Mầu thể hiện sự phản kháng với lễ giáo vô lý trong xã hội mà quyền yêu và lấy người mình yêu không được ủng hộ, chấp thuận. Thị Mầu trong chèo cũng là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu. Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến. Qua những phân tích trên thì mọi người có thể thấy rõ là em nghiêng về quan niệm thứ hai nhiều hơn.
Tóm lại Thị Mầu là nhân vật dám sống thật với bản thân, dám vượt qua những lễ giáo phong kiến, sắc thái nữ quyền trong Mầu cũng hiện lên rất rõ nét hơn ở khao khát tự do yêu đương, bản năng tính dục trong Thị Mầu điều mà người phụ nữa xưa không dám làm.
Mẫu 2
Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Theo em, Thị Mầu đích thực là một người phụ nữ đáng thương. Nàng là một người phụ nữ đẹp, khao khát tình yêu và cũng sống thật với những khao khát của mình. Tuy nhiên, thời đại nàng đang sinh sống lại không cho phép điều đó. Bằng ngôn ngữ chèo đặc trưng, nhân vật Thị Mầu được miêu tả rất rõ nét. Nàng là một người con gái đẹp, được thể hiện qua các hình ảnh như đôi môi đỏ mọng, nụ cười lúng liếng đa tình. Trên sân khấu chèo, những đặc điểm này được cụ thể hoá, biến ra một chú bướm lộng lẫy sắp phá kén chui ra. Nàng để ý đến Thị Kính, suốt ngày áo nâu, tụng kinh, bất động. Bất chấp mọi định kiến, Mầu nghe theo dục vọng và khát khao của trái tim, quấn lấy thầy Tiểu. Ở trong xã hội đó, đây được coi là một việc làm trái với luân thường đạo lý. Không chỉ quyến rũ sư thầy trong chùa, Mầu còn đi ngược lại luân lý thời đó là nam nữ thụ thụ bất thân. Gánh trên vai cái danh lẳng lơ muôn đời phỉ nhổ, nhưng nếu sống ở thời đại khác, có lẽ cuộc đời Thị Mầu sẽ không bi thảm như vậy. Có lẽ, nàng sẽ có được hạnh phúc, sống thật với bản thân và thoải mái thể hiện tính cách của mình. Chỉ tiếc rằng, thời thế không cho phép. Mặc dù những hành động của Thị Mầu không đúng với thuần phong mỹ tục, nhưng cũng không đến nỗi bị chửi là đồ lẳng lơ, xấu tính, gánh trên vai những lời thoá mạ muôn đời.
Mẫu 3
Nhân vật Thị Mầu có lẽ là một nhân vật được bàn luận nhiều nhất trên sân khấu chèo và cả trong thế giới văn chương của Việt Nam. Khi bàn luận về nhân vật này, thường có hai luồng ý kiến trái chiều nhau. Có ý kiến cho rằng nhân vật Thị Mầu trong đoạn trích Thị Mầu lên chùa (Quan Âm Thị Kính) là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách. Đầu tiên, phải nói về cách xây dựng nhân vật Thị Mầu. Nàng là một người con gái xinh đẹp, từ khuôn mặt đến dáng hình. Dưới ngòi bút của tác giả, Thị Mầu xuất hiện trên sân khấu chèo có thể làm cho người xem kinh diễm. Từ những chi tiết như bờ môi, ánh mắt, tác giả lại nói đến dáng vẻ đỏng đảnh, lả lướt phô bày hết thảy những đường cong cơ thể của người con gái. Mọi sự việc diễn ra từ ngày Mầu phải lòng với sư tiểu Thị Kính trên chùa. Mối lương duyên này đi ngược lại với thế tục, nên người đồi không ưa, Thị Kính cũng chẳng bằng lòng. Trái với thời đại, nàng lại chẳng quan tâm đến những cái yêu cầu đặt điều của người đời, chỉ quan tâm đến khao khát và ham muốn của bản thân. Vậy nên, tuân theo dục vọng đó, nàng đã quyến rũ Thị Kính. Hành động của nàng trong xã hội ấy được xem là vô đạo đức, đáng bị người đời phỉ nhổ, trừng phạt. Nhưng liệu rằng, hành động ấy đáng bị lên án như thế hay chăng? Thử hỏi rằng, nếu Mầu sinh ra trong thời hiện đại, nàng có bị vạn người thóa mạ như trước hay chăng? Có lẽ là không. Nàng sinh ra trái thời, vậy nên những khát khao ấy trở nên sai trái, trở nên ngỗ nghịch. Vậy nên, Thị Mầu đã sống thực với bản thân, nhưng lại sống sai thời đại, là một người đáng thương hơn là đáng trách.
Mẫu 4
Xin chào cô và các bạn. Trong buổi thảo luận hôm nay, em sẽ đưa ra những ý kiến, quan điểm của bản thân xoay quan vấn đề "Xây dựng văn hóa đọc". Kính mời cô cùng các bạn theo dõi, lắng nghe.
Trước khi đi sâu vào vấn đề, mình có một câu hỏi nhỏ cho mọi người như sau: Các bạn có thường đọc sách hay không? Mỗi tháng bạn đọc bao nhiêu cuốn sách? Như các bạn có thể thấy, ngày nay, thiết bị công nghệ điện tử phát triển và bùng nổ đã mang đến rất nhiều hứng thú cho con người. Chúng ta có thể dành hàng giờ chỉ để lướt Tiktok, Facebook nhưng lại keo kiệt thì giờ cho việc đọc sách. Như vậy, xây dựng văn hóa đọc là vấn đề ý nghĩa và cần thiết, phục vụ cuộc sống của con người. Mình biết có một số bạn cho rằng phát triển văn hóa đọc là không cần thiết, đọc sách không tích lũy nhiều kinh nghiệm bằng việc trải nghiệm thực tế.
Dưới góc nhìn của mình, xây dựng văn hóa đọc không phải là kiểu chạy theo số lượng, theo "trend" hay nhiệm vụ. Đọc ở đây là để hiểu, để tích lũy tri thức và kinh nghiệm. Thay vì tiếp cận những thông tin thật giả lẫn lộn, chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội, bạn có thể tìm hiểu chúng trong sách báo. Mở một trang sách, bạn sẽ biết vô vàn điều mới mà không phải ai cũng dạy cho chúng ta.
Từ đây, để việc xây dựng văn hóa đọc thêm phát triển và mở rộng, các cơ quan có liên quan cần đưa ra chương trình cụ thể. Ngoài ra, phải không ngừng nâng cao và đổi mới, cập nhật đầu sách. Những thư viện quản lí cần cải thiện cơ sở vật chất để đáp ứng nhu cầu của người đọc.
Trên đây là một số ý kiến của em về vấn đề xây dựng văn hóa đọc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.
Mẫu 5
Chào cô và các bạn. Em là Hà Linh. Trong tiết Nói và nghe ngày hôm nay, em sẽ trình bày những ý kiến của mình về vấn đề "Tôn trọng sự khác biệt".
Các bạn hiểu như nào là "tôn trọng sự khác biệt"? Theo mình, tôn trọng sự khác biệt là có cái nhìn đúng đắn và toàn diện về mọi người xung quanh, không tỏ ra kì thị hay chê bai, ghét bỏ những thứ đi ngược lại với số đông. Tuy nhiên, ngày nay, vài cá nhân thường phán xét và cho rằng khác biệt là "chơi trội", không đúng với thuần phong mỹ tục của người Việt. Nhưng bạn ơi, chớ vội đưa những đánh giá phiến diện như vậy. Thế giới rộng lớn có 7 tỉ người, tương đương với vô vàn tính cách, quan điểm sống khác nhau. Cớ sao chúng ta lại bắt ép người khác đi theo một khuôn khổ nhất định, đúng không nào?
Như vậy, mỗi người hãy học cách nhìn nhận và tôn trọng sự khác biệt. Để làm được điều đó, từng cá nhân phải biết đặt vị trí của mình vào người khác để thấu hiểu, đồng cảm. Thay vì soi mói và bới móc, chúng ta nên tôn trọng quyền riêng tư ở mỗi cá nhân.
Sau khi lắng nghe những ý kiến đóng góp của mọi người, mình đưa ra kết luận như sau: Tôn trọng sự khác biệt là một việc làm ý nghĩa, thể hiện sự tôn trọng người khác. Mỗi người hãy có cái nhìn cởi mở hơn nữa với mọi người xung quanh. Khi góp ý, chúng ta cần đóng góp bằng thái độ tích cực, hài hòa, không nên "bới lông tìm vết". Mong rằng, các bạn sẽ luôn nhớ tới câu nói của chú mèo Zorba trong tác phẩm "Chuyện con mèo dạy hải âu bay": "Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương kẻ nào giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn, và con đã giúp chúng ta làm được điều đó".
Cảm ơn cô và các bạn đã theo dõi, lắng nghe bài trình bày của em.
Mẫu 6
Mình là Ngọc Khánh. Trong tiết học ngày hôm nay, mình sẽ đưa ra những ý kiến, quan điểm về vấn đề "Tham gia hoạt động thiện nguyện".
Như mọi người đã biết, cha ông ta từ xưa đến này luôn đề cao truyền thống tương thân tương ái "lá lành đùm lá rách". Giữ gìn và phát huy truyền thống cao đẹp ấy, ngày nay, có rất nhiều cá nhân và tổ chức các hoạt động thiện nguyện. Hoạt động này đã đem đến giá trị tốt đẹp về vật chất và tinh thần cho những người khó khăn trong cuộc sống. Đó là những chương trình ý nghĩa như: "Đông ấm cho em", "Hướng về miền Trung ruột thịt",... Có thể nói, tất cả mọi người đều cho rằng hoạt động thiện nguyện là cần thiết, ý nghĩa. Tuy nhiên, một số vấn đề nổi cộm gần đây đã làm chúng ta có cái nhìn khác đi về thiện nguyện. Như việc vài cá nhân, tổ chức lợi dụng từ thiện để kiếm lợi cho bản thân. Ngoài ra, vài kẻ xấu còn chăn dắt trẻ em, người già yếu nhằm trục lợi.
Theo quan điểm của cá nhân mình, những hiện tượng trên chỉ là "con sâu làm rầu nồi canh". Vẫn còn nhiều mạnh thường quân sẵn sàng bỏ túi tiền cá nhân để làm từ thiện. Họ cho đi mà không đòi hỏi được nhận lại. Các chuyến đi tình nghĩa tìm đến vùng khó khăn luôn được tổ chức đều đặn. Trường lớp hay một vài nhà xuất bản cũng thường xuyên tổ chức quyên góp sách vở... Từ đây, hoạt động thiện nguyện vẫn tồn tại trong xã hội bằng nhiều phương thức khác nhau, đúng không các bạn?
(Mọi người nêu ý kiến của bản thân và đưa ra ý kiến thống nhất)
Mình cảm thấy rất vui và hạnh phúc khi mọi người đều ủng hộ hoạt động từ thiện. Kết thúc bài thảo luận, mình sẽ đưa ra những kết luận sau: hoạt động thiện nguyện là hành động cao đẹp cần được giữ gìn và tiếp tục phát triển. Chúng ta hãy biết mở rộng tấm lòng, quan tâm tới những người có số phận đau khổ, bất hạnh.
Kính chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là............học sinh.........trường.........
Trước một tác phẩm truyện, mỗi người đọc có thể có những cảm nhận, quan điểm riêng biệt, những đánh giá khác nhau về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó, hoặc những cách lý giải khác nhau về một nhân vật, tình tiết truyện. Đến với bài nói ngày hôm nay tôi xin chia sẻ quan điểm của tôi trước ý kiến: Để hiểu đúng nhân vật Huấn Cao, có nhất thiết phải biết tường tận về Cao Bá Quát - một nhân vật lịch sử được Nguyễn Tuân chọn làm nguyên mẫu không?.
Trước hết tôi sẽ trình bày lí do vì sao tôi lựa chọn vấn đề này. Thứ nhất, vấn đề mối quan hệ giữa nguyên mẫu và nhân vật trong tác phẩm là một trong nhiều yếu tố cần phải quan tâm khi người đọc tiếp nhận tác phẩm. Liệu có nên đồng nhất nhân vật trong tác phẩm và nguyên mẫu ngoài đời không? Thứ hai, Nguyễn Tuân lựa chọn Cao Bá Quát làm nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao, vậy sự tương đồng và khác biệt khi hư cấu một nhân vật văn học nằm ở đâu? Liệu có cần phải biết tường tận về một nhân vật lịch sử để lý giải một nhân vật văn học không? Để trả lời các câu hỏi trên, tôi xin phép trình bày một số quan điểm của cá nhân tôi.
Tác phẩm “Chữ người tử tù’ nằm trong tập “Vang bóng một thời” xuất bản năm 1940 của Nguyễn Tuân. Xây dựng nhân vật Huấn Cao như một hiện thân của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương, Nguyễn Tuân đã gửi gắm quan điểm nghệ thuật và nhân sinh sâu sắc qua nhân vật chính này. Huấn Cao hiện lên với tài viết chữ nổi tiếng, với khí phách hiên ngang - là tử tù nhưng rất ung dung, bình thản, thái độ đầy ngạo mạn và khinh bạc trả lời viên quản ngục, luôn bình thản, ung dung chờ đợi cái chết, không chịu khuất phục trước uy quyền; với thiên lương trong sáng, nhân cách cao đẹp - không tham quyền, hám lợi mà bán rẻ giá trị của mình, trọng nghĩa khí.
Chữ Cao trong tên của nhân vật gợi nhắc đến tên tuổi của một nhân vật có thật trong lịch sử - Cao Bá Quát, người cũng nổi tiếng với tài viết chữ đẹp. Dân gian có câu “thần Siêu thánh Quát” để ca ngợi hai con người có nét chữ xuất thần. Cao Bá Quát sống vào khoảng thế kỷ 19, là một nhà nho, nhà thơ lớn, “văn võ song toàn”; một vị quan thanh liêm, chính trực, bảo vệ quyền lợi cho dân, cũng là lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, từng bị triều đình bắt giam.
Giữa nhân vật trong “Chữ người tử từ” và nhân vật lịch sử có rất nhiều điểm tương đồng: đều là người có tài viết chữ đẹp, văn võ song toàn, có bản lĩnh, khí phách kiên cường, bất khuất, tính cách ngang tàn. Trong mắt triều đình, họ đều là tên giặc nguy hiểm đã nổi dậy khởi nghĩa, nhưng trong mắt nhân dân, họ là những anh hùng đã đứng lên bảo vệ quyền lợi của dân chúng. Cả hai đều là những người tôn thờ cái đẹp, Cao Bá Quát chỉ cúi đầu trước nét đẹp thanh tao của hoa mai; Huấn Cao say mê thú chơi chữ tao nhã.
Nhưng giữa nhân vật lịch sử và nhân vật văn học vẫn có một khoảng cách xa, và nhà văn đã dùng tưởng tượng của bản thân để lấp đi khoảng cách đó. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù”, Huấn Cao (người tử tù) hiện lên như một người nghệ sĩ sáng tạo cái đẹp qua cảnh ông cho chữ quản ngục. Ở một nơi toàn “phân gián, phân chuột”, mạng nhện giăng đầy, nền ẩm ướt... người cho chữ lại là người tử tù “tay đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng tư thế cho chữ thì hiên ngang, lồng lộng. Tuy nhiên, nguyên mẫu trong thực tế - Cao Bá Quát, không được lưu truyền câu chuyện cho chữ nào. Mặc dù chữ của Cao Bá Quát rất đẹp, rất quý, nhưng thực tế không có cảnh cho chữ khuôn mẫu nào ở nhân vật này để Nguyễn Tuân tái hiện. Vì thế, cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” là một sáng tạo độc đáo. Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật quản ngục - một người kính nể, ngưỡng mộ Huấn Cao, biệt đãi Huấn Cao vì muốn được xin nét chữ quý. Nhưng trong lịch sử, trong suốt thời gian dài bị giam cầm, Cao Bá Quát thường chịu nhục hình tra tấn.
Từ con người đời thực là Cao Bá đến con người trong văn học Huấn Cao là một sự sáng tạo của Nguyễn Tuân, là sự bù đắp của nghệ thuật vào phần thiếu hụt của cuộc sống. Tìm hiểu thêm về Cao Bá Quát để thấu hiểu được một thời “vang bóng”, con người “vang bóng” mà Nguyễn Tuân tôn sùng là thời đại nào. Nhưng nếu rập khuôn nguyên mẫu vào nhân vật văn học, thì rất nhiều điểm chênh sẽ hiển lộ ra. Vì thế, tôi cho rằng khi tìm hiểu về Huấn Cao, có thể tìm hiểu về Cao Bá Quát, nhưng không nên áp đặt toàn bộ những tư liệu đó vào việc lý giải nhân vật.
Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Tôi rất vinh hạnh nếu được nghe chia sẻ của thầy cô về vấn đề mà tôi đang suy ngẫm, đồng thời rất sẵn lòng được cùng thảo luận những vấn đề khác mà thầy cô và các bạn đưa ra.
Mẫu 7
Thuốc kháng sinh là cái tên không còn quá xa lạ với tất cả mọi người. Loại thuốc quen mặt này xuất hiện trong điều trị nhiều bệnh lý, từ đơn giản đến phức tạp và có thể mua ở hầu hết mọi nhà thuốc. Tuy nhiên nhiều người lại lạm dụng chúng quá mức và còn nêu ra quan niệm: Khi ốm đau, tốt nhất là dùng kháng sinh cho nhanh khỏi bệnh.
Vậy có thực là thuốc kháng sinh sẽ giúp nhanh khỏi bệnh hay không? Mặc dù kháng sinh có tác dụng tích cực là điều trị bệnh, diệt vi khuẩn gây bệnh, không cho vi khuẩn sinh sôi nảy nở tiết ra các độc chất gây hại cho cơ thể, nhưng nó còn có tác dụng phụ như phản ứng phụ hoặc dị ứng. Mặt khác, việc lạm dụng thuốc kháng sinh khiến sự xuất hiện của các vi khuẩn kháng thuốc đang ngày càng phổ biến như: tụ cầu kháng methicilline; phế cầu kháng penicilline; khuẩn salmonela đa kháng với choramphenicol, ampicillin, cotrimoxazole... Sự xuất hiện của các vi khuẩn này gây nguy hiểm nghiêm trọng đến tính mạng của con người. Thực trạng dễ thấy hiện nay là nhiều người khi bị ốm, thậm chí bị cảm cúm do virus nhưng do ngại đến cơ sở y tế khám nên tự tìm mua kháng sinh để uống với mong muốn nhanh khỏi bệnh. Tuy nhiên việc sử dụng thuốc kháng sinh chưa hợp lý, lạm dụng thuốc… sẽ tạo điều kiện cho các vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh, khiến cho thuốc kém hiệu quả và mất dần tác dụng. Đặc biệt là các bậc phụ huynh thấy trẻ bị ho, sốt, viêm họng nhẹ, mặc dù chưa cần dùng đến thuốc kháng sinh cũng tự ý kê đơn kháng sinh hoặc mua thuốc theo đơn cũ cho trẻ uống. Những bệnh nhẹ này của trẻ thay vì sử dụng thuốc kháng sinh có thể dùng những biện pháp vừa an toàn vừa hiệu quả như rửa mũi, súc họng bằng nước muối, sử dụng thuốc ho... Nếu bệnh tình tái phát hoặc không thuyên giảm thì đưa trẻ đến các trung tâm y tế điều trị theo chỉ định của bác sĩ. Việc tự ý sử dụng thuốc kháng sinh khiến cho thuốc không những không trị được bệnh, mà còn làm cơ thể sản sinh ra các vi khuẩn kháng thuốc gây nguy hiểm cho người bệnh. Lạm dụng kháng sinh ảnh hưởng đến sức khỏe người dùng: Tác dụng chính của kháng sinh là diệt khuẩn và nấm chính vì thế nếu lạm dụng sử dụng kháng sinh không đúng cách, liều lượng, tự ý dùng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người bệnh. Kháng sinh không chỉ diệt các vi khuẩn có hại mà chúng còn có thể ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn có lợi trong khu vực niêm mạc, lợi, hầu, trong cơ quan tiêu hóa,… Vì vậy, sử dụng kháng sinh quá nhiều lần gây nên hiện tượng loạn khuẩn, khiến cho các vi khuẩn có lợi bị tiêu diệt, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Đối với người cao tuổi sử dụng kháng sinh không đúng cách, sai nguyên tắc còn có thể gây nên các biến chứng nguy hiểm như sốc phản vệ, có thể tử vong nếu như không được cấp cứu kịp thời. Trẻ nhỏ cũng là một trong những đối tượng chịu ảnh hưởng nặng nề nếu dùng kháng sinh sai cách, khiến cho bé dễ bị hen suyễn, sức đề kháng yếu đi,… nên bé khó có thể phát triển khỏe mạnh. Để hạn chế lạm dụng thuốc kháng sinh cần nâng cao nhận thức ngay từ mỗi cá nhân bằng cách bắt đầu bằng thói quen tuân thủ đơn thuốc của bác sĩ, không tự ý mua và dùng kháng sinh khi chưa có ý kiến của bác sĩ điều trị. Khi được bác sĩ kê đơn có thuốc kháng sinh, luôn uống đủ liều lượng đã được kê, không bỏ dở nửa chừng, ngay cả khi cảm thấy bệnh đã đỡ nhiều. Không dùng thuốc kháng sinh thừa từ lần sử dụng trước; không chia sẻ thuốc kháng sinh trong toa thuốc đang dùng cho người khác uống, ngay cả khi đó là người thân của mình.Thường xuyên rửa tay bằng xà phòng để phòng ngừa lây nhiễm vi khuẩn, góp phần giảm bớt nguy cơ phải dùng đến thuốc kháng sinh. Mỗi cán bộ y tế cần sử dụng kháng sinh có trách nhiệm, chỉ định sử dụng kháng sinh đúng các hướng dẫn chuyên môn và kê đơn khi cần thiết. Đối với các cơ quan chức năng, trực tiếp là ngành y tế, cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động kê đơn và bán thuốc theo đơn tại các bệnh viện, nhà thuốc, tăng cường kiểm soát, quản lý sử dụng kháng sinh. Đồng thời, có chế tài xử lý thích đáng đối với các hành vi vi phạm.
Có thể thấy không phải cứ ốm mà mình sử dụng thuốc kháng sinh, thay vào việc tự tiện sử dụng hay lạm dụng nó thì chúng ta phải đến bác sĩ để khám bệnh và uống theo đúng liều lượng được kê đơn.
Mẫu 8
Mỗi nhân vật trong một tác phẩm văn học đều mang những vẻ đẹp, cá tính riêng. Tác phẩm đưa ra những ý kiến trái chiều để bạn đọc có thể bàn luận cũng được coi là đã thành công tạo được những ấn tượng, thu hút bạn đọc. Nhân vật Thị Mậu trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính” là một người như vậy. Nhận xét về nhân vật, có ý kiến cho rằng: Thị Mầu trong đoạn trích “Thị Mầu lên chùa” là người lẳng lơ, xấu tính. Ý kiến khác lại khẳng định Thị Mầu là người dám sống thực với mình, đáng thương hơn đáng trách.
Tuy ý kiến trái chiều nhưng đều có những lí lẽ riêng, thể hiện cảm nhận của người đánh giá. Trước hết, hãy cùng thảo luận về ý kiến “Thị Mầu là một người lẳng lơ, xấu tính”. Trước hết, tính cách lẳng lơ của thị được thể hiện qua một vẻ ngoài ấn tượng. Vẻ đẹp ngoại hình của Mầu có sự cộng hưởng của cái yếm thắm trong đó thổn thức bộ ngực con gái thèm khát yêu đương, chiếc áo tứ thân mớ ba mớ bảy, với con mắt sắc như dao cau, với nụ cười tươi nở ra trên đôi môi đỏ mọng, và với cái thân hình uốn éo luôn để lộ những đường cong khêu gợi…Thị Mầu từ kịch bản văn học bước ra sân khấu đã hút hồn người xem bởi chính ánh mắt đong đưa, lúng liếng, lời nói ngọt ngào, sóng sánh như mật, nụ cười môi thắm, răng trắng ngọc ngà mời mọc, năm ngón tay búp măng nõn nà xòe, phẩy quạt, váy áo bay tung, dải thắt lưng xanh phấp phới, quấn quyện ngay trên đầu chú tiểu trẻ đang ngồi gõ mõ, niệm kinh, chịu trận như hóa đá... những bước đi vòng rộng nhún nhẩy, dáng dấp phóng túng bay bướm đầy ắp sinh khí như muốn phá tung mọi ràng buộc của lễ nghi phong kiến. Rõ ràng vẻ bên ngoài của Thị Mầu đã toát lên tính cách, việc làm, tâm tư của Thị. Nguyên tắc đối lập trong xây dựng nhân vật chèo cổ đã làm nổi bật hai hình tượng. Thị Kính – áo nâu sồng, miệng tụng kinh, tay gõ mõ, ngồi bất động, Thị Mầu áo mớ ba mớ bảy sặc sỡ, tay cầm quạt, thoắt gập, thoắt xòe…Thị Kính trần tư bao nhiêu thì Thị Mầu cuồng nhiệt bấy nhiêu. Thị Kính dịu dàng, kín đáo, đoan trang, Thị Mầu lại mạnh mẽ, lẳng lơ, táo bạo. Thị Kính càng né tránh thì Thị Mầu càng lăn xả để thỏa mãn dục tình. Biết Thị Kính là một thầy tu nhưng Thị Mầu vẫn không ngừng tìm cách quyến rũ. Dù Tiểu Kính đã nhiều lần từ chối như Thị Mầu vẫn không bỏ cuộc mà vẫn luôn tìm cách để trò chuyện, liên tục gọi “thầy tiểu ơi” đầy dịu dàng, tha thiết. Từ những hành động trên, có thể thấy rằng Thị Mầu là một người phụ nữ lẳng lơ, xấu tính.
Thế nhưng, nếu nhìn trên phương diện tích cực thì Mầu lại là một cô gái có khát vọng tình yêu cao cả. Thật hiếm người phụ nữ nào trong xã hội xưa có thể bộc lộ tình cảm của mình một cách thẳng thắn như Mầu. Họ thường sẽ im lặng, âm thầm chịu đựng hoặc dịu dàng, ẩn ý trong tình yêu của mình. Nhân vật Thị Mầu trong chèo cổ biểu hiện cho một phẩm chất khác của người phụ nữ Việt Nam đó là khát khao yêu đương. Đây là quyền cơ bản của người phụ nữ nói riêng và con người nói chung. Thị Mầu trong chèo là một tấm gương điển hình về sự phá phách, chống lại những trói buộc của chế độ phong kiến hà khắc, khát khao hướng tới hạnh phúc của người phụ nữ thời bấy giờ. Người phụ nữ này dám bộc lộ hết mình, biết sống, biết khao khát tận hưởng với đời. Dám yêu, dám lên tiếng vì tình yêu - giữa xã hội phong kiến chỉ duy nhất một Thị Mầu.Thị cất lên tiếng nói nữ quyền để lật đổ thành trì lễ giáo cũ kĩ đã trở thành giáo điều, đạp đổ những lệ làng, những đạo đức giả, những quan niệm cổ hủ chà đạp lên thân phận và tước đoạt hạnh phúc con người. Mầu ở đây thật mới. Cô chấp nhận, van lơn thứ tình “ở trọ”, “qua đường” và chính trong cái quyết liệt đó đã mai phục sẵn một tâm thế liều lĩnh: “mai sau dù có ra sao cũng đành” sẽ được bùng lên ở những chặng sau trong cuộc đời cô. Sự nổi loạn của Thị Mầu là thách thức xã hội:
“Lẳng lơ cũng chẳng hao mòn
Chính chuyên chẳng để sơn son mà thờ”
Thị Mầu đã dám nghĩ, dám yêu, dám bày tỏ và sẵn sàng chấp nhận hậu quả cuối cùng. Đam mê của Thị mang tính bản năng và xuất phát từ trái tim không toan tính vụ lợi, không ràng buộc. Khi bị từ chối, tình yêu càng trở nên mãnh liệt. Không đạt được mong muốn, khát khao của Thị Mầu càng cháy bỏng. Thị Mầu đã đi ngược quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân để tiến đến sát sạt tiểu Kính mà ghẹo, mà quyến rũ bởi Thị Mầu đã say đắm vẻ đẹp của thầy Tiểu và khát khao có được tình yêu của Kính Tâm. Xét ở phương diện yêu thì Thị Mầu đúng là một cô gái hiện đại. Thị đã dám yêu, dám bày tỏ, dám vượt qua lễ giáo của xã hội phong kiến, những mong có được tình yêu của mình. Có bao nhiêu cô gái thời đại ấy đã dám làm thế như Thị Mầu. Đến ngay cả Thúy Kiều, được coi là táo bạo, bị các nhà Nho thời đó cho là “dâm” khi dám “ xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” đi tìm Kim Trọng thì cũng chỉ mới dừng lại ở ranh giới nhất định. Kiều vẫn không dám phá bỏ lễ giáo phong kiến khi nói “Nên chăng là cũng tại lòng mẹ cha” để lúc sa chân vào cuộc đời gió bụi cũng chỉ dám thốt lên một câu tiếc nuối “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”. Nói như vậy, không có nghĩa là chúng ta “tán thưởng” Thị Mầu về cách hành xử trong tình yêu, mà chỉ để thấy rõ hơn lý do lỗi lầm của Thị để tha thứ cho một cô gái mang cái “án lẳng lơ” theo suốt chiều dài văn hóa dân tộc. Lỗi lầm của Thị Mầu là ở chỗ yêu say đắm nhưng không hiểu rằng tình yêu cần phải có từ hai phía. Vì thế, Thị đã biến tình yêu của mình thành sự si mê mù quáng, dẫn đến bi kịch cho mình và người mình yêu.
Thị Mầu là con người của nghệ thuật. Và nghệ thuật dân gian mang hơi thở của cuộc sống. Nên con người của nghệ thuật phải chăng chính là con người của cuộc đời. Và khát vọng của Thị Mầu là của bao cô gái trong xã hội phong kiến.
Tuy có những ý kiến trái chiều về nhân vật nhưng với quan điểm hiện đại ngày nay, có lẽ Thị Mầu không phải là một cô gái “xấu”. Vì vậy, khi đánh giá một nhân vật hay bất cứ con người nào, chúng ta cần dành cho họ một cái nhìn đa chiều và tích cực để từ đó có những cảm nhận đúng đắn, sâu sắc về con người ấy. Chính nhân vật Thị Mầu đã góp phần làm nên sức sống cho vở chèo “Quan Âm Thị Kính” vẫn còn âm vang mãi tới ngày hôm nay.
Mẫu 9
Mỗi chúng ta khi sinh ra đời chúng ta không thể tự lựa chọn cha mẹ hay số phận cho chính mình được. Tạo hóa cho mỗi con người một số phận khác nhau. Có những người vừa sinh ra đã gặp nhiều may mắn hạnh phúc có ba mẹ yêu thương, sinh ra trong một gia ...
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |