Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

So sánh tác phẩm "lời thề cỏ may" của tác giả Phạm Công Trứ và tác phẩm "chân quê" của tác giả Nguyễn Bính

so sánh tác phẩm "lời thề cỏ may" của tác giả Phạm Công Trứ và tác phẩm "chân quê" của tác giả Nguyễn Bính
2 trả lời
Hỏi chi tiết
17
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Hai tác phẩm "Lời thề cỏ may" của Phạm Công Trứ và "Chân quê" của Nguyễn Bính đều là những bài thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam, phản ánh tâm tư và nỗi niềm của người nông dân cũng như tình yêu quê hương đất nước.

### 1. Chủ đề và nội dung
- **Lời thề cỏ may**:
- Tác phẩm xoay quanh chủ đề tình yêu và sự thủy chung trong tình cảm. Qua hình ảnh cỏ may, tác giả gửi gắm lời thề ước hẹn giữa nam và nữ, biểu thị tính chân thành và tình yêu sâu sắc. Hình ảnh cỏ may còn mang biểu tượng của sự trong sáng và bền bỉ, thể hiện ước muốn về một tình yêu son sắt, dù có gian khó vẫn không phai nhòa.

- **Chân quê**:
- Tác phẩm của Nguyễn Bính tập trung vào vẻ đẹp của quê hương, với những hình ảnh gần gũi, giản dị nhưng đầy sức sống. Bài thơ khắc họa cuộc sống lại với những kỷ niệm ngọt ngào và sự gắn bó sâu sắc giữa con người và thiên nhiên. Qua đó, tác giả thể hiện lòng yêu quê, tình yêu thiên nhiên và những giá trị giản dị trong đời sống.

### 2. Hình thức và ngôn ngữ
- **Lời thề cỏ may**:
- Bài thơ sử dụng nhiều biện pháp tu từ như nhân hóa, ẩn dụ, và hình ảnh thơ độc đáo. Ngôn ngữ của tác phẩm thường mang đậm chất trữ tình, phong phú và giàu cảm xúc. Tác phẩm thể hiện sự tinh tế trong lựa chọn từ ngữ, điều này làm nổi bật tâm trạng của người trong cuộc.

- **Chân quê**:
- Ngôn ngữ của Nguyễn Bính nhẹ nhàng, giản dị nhưng rất tinh tế. Hình ảnh trong thơ thường rất gần gũi và thân thuộc, dễ dàng gợi nhớ về tuổi thơ và quê hương. Phong cách thơ của Nguyễn Bính mang đậm nét dân gian, tạo cảm giác thân mật và ấm áp.

### 3. Tâm tư và cảm xúc
- **Lời thề cỏ may**:
- Tác phẩm tỏa ra một nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, thể hiện sự chân thành và hy vọng của những con người yêu nhau. Tâm trạng của nhân vật trong bài thơ vừa tràn ngập yêu thương lại cũng có chút tiếc nuối, lo lắng về tương lai.

- **Chân quê**:
- Cảm xúc trong "Chân quê" tản mác sự lạc quan, yêu đời và luôn hướng về quê hương. Tác giả tạo ra bầu không khí yên bình, nhẹ nhàng, khiến người đọc cảm nhận được sự ấm áp của tình quê hương.

### Kết luận
Dù cả hai tác phẩm đều mang đậm tính dân gian và tình yêu quê hương, nhưng "Lời thề cỏ may" của Phạm Công Trứ lại tập trung vào cảm xúc và tâm tư của tình yêu, trong khi "Chân quê" của Nguyễn Bính khắc họa vẻ đẹp giản dị và trong lành của cuộc sống và quê hương. Cả hai tác phẩm đều có giá trị nghệ thuật cao, góp phần làm phong phú thêm cho văn học Việt Nam.
1
0
Khánh
hôm qua
+5đ tặng

1. Bài thơ Lời thề cỏ may (1986) của Phạm Công Trứ ra đời sau Chân quê của Nguyễn Bính đúng nửa thế kỉ (1936). Và việc nó chịu ảnh hưởng thi phẩm rất nổi tiếng của Nguyễn Bính dường như là không thể khác được. Tuy nhiên, ảnh hưởng đến mức nào? Chúng có làm mất đi những giá trị thật sự trong sáng tác của Phạm Công Trứ?

Đã có không ít những ý kiến khác nhau về vấn đề này, trong đó đáng chú ý là nhận xét của tác giả bài viết “Phạm Công Trứ: Gã nhà quê tinh quái” (Tiền Phong, 08/9/2013): “Có thể nói Phạm Công Trứ đã ‘nhại’ lại bài thơ nổi tiếng của người đi trước? Vẫn một tứ thơ hoài cổ, muốn níu giữ những gì đã quen thuộc từ “ngày xửa ngày xưa”. Vẫn một tâm trạng ích kỉ, hoang mang của anh con trai xưng “tôi” trước sự thay đổi của “em”… Xét nét hơn nữa thì có thể chỉ ra sự lặp lại cả về hình thức: hai bài thơ đều được “gói lại” bằng một cặp lục bát tách rời với phần trên: “Hôm qua em đi tỉnh về/ Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều” (Nguyễn Bính); “Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may” (Phạm Công Trứ).

Và cũng không thể không nói đến ý kiến sau đây của nhà thơ Trần Đăng Khoa (dù không trực tiếp đề cập đến Lời thề cỏ may): “Có một nhà thơ ở bậc đàn anh, đọc xong Trứ bảo: “Đời đã có một Nguyễn Bính rồi. Có nên cần thêm một Nguyễn Bính hạng hai, hạng ba nữa không?”… “Giá không có Nguyễn Bính, có lẽ Phạm Công Trứ đã có một cái chiếu giữa làng văn. Nhưng cái chiếu Trứ đang ngồi vào hiện nay, Nguyễn Bính đã ngả bóng mình xuống đó cách đây nửa thế kỷ. Bởi thế, thơ Trứ có chỗ quả cũng cớm nắng, xanh xao. Thiết tưởng, Trứ cũng có thể bắt chước người xưa, ngửa mặt lên trời mà than rằng: Trời đã sinh ra Trứ sao trước đó còn sinh ra Bính?”[1]. 

Từ thực tế trên, thiết nghĩ cần có một sự so sánh kĩ lưỡng hơn về hai bài thơ Chân quê và Lời thề cỏ may, vừa để hiểu thêm về hai tác phẩm, hai nhà thơ của quê hương Nam Định giàu truyền thống văn chương ở hai thời đại, vừa hiểu thêm về một số vấn đề cơ bản trong sáng tác và tiếp nhận văn học.

2. Như ta đã biết, cuộc sống nói chung và nghệ thuật nói riêng luôn là cuộc “chạy tiếp sức” không ngừng nghỉ. Trong nghệ thuật, truyền thống và cách tân, tiếp thu và sáng tạo luôn là yêu cầu sống còn. Vấn đề quan trọng là tiếp thu và sáng tạo như thế nào để sáng tác của nhà văn trở nên có sức sống tươi mới và lâu bền trong lòng người đọc… Trong lịch sử văn học Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một minh chứng tiêu biểu cho sự tiếp thu và sáng tạo ấy.

Trở lại trường hợp Lời thề cỏ may và Chân quê, với hơn 80 năm tồn tại, sức sống của Chân quê là điều không cần phải bàn cãi. Nhớ đến Nguyễn Bính bạn đọc nhớ ngay đến bài thơ tiêu biểu cho phong cách “quê mùa” này của ông. Còn với Phạm Công Trứ, Lời thề cỏ may được rất nhiều bạn đọc yêu thích, được in đi in lại nhiều lần, đặc biệt tên thi phẩm này còn được dùng làm tên chung cho nhiều tập thơ của Phạm Công Trứ (Lời thề cỏ may I, 1990; Lời thề cỏ may II, 1993; Lời thề cỏ may III, 1996  và sau đó là Cỏ may thi tập (2000). Mối “duyên nợ” của Lời thề cỏ may với Chân quê là khá rõ. Nhưng sự tiếp thu và sáng tạo ở Phạm Công Trứ là như thế nào để tạo nên sưc sống cho bài thơ? Quả là nếu chỉ đọc thoáng qua hai bài thơ với một định kiến có sẵn rằng những gì cần nói và nói rất hay thì Nguyên Bính đã làm. Vẫn một tứ thơ hoài cổ, muốn níu giữ những gì đã quen thuộc từ “ngày xửa ngày xưa”. Vẫn một tâm trạng ích kỉ, hoang mang của anh con trai xưng “tôi” trước sự thay đổi của “em”. Thay đổi gì? Thay đổi về chuyện ăn mặc: anh trai quê của Nguyễn Bính khó chịu với “khăn nhung quần lĩnh rộn ràng/ áo cài khuy bấm...”; nhân vật “tôi” của Phạm Công Trứ cũng mặc cảm trước “Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò”. Nhưng suy xét kĩ thì có thể nói, sự khác nhau giữa hai bài thơ này không ít. Trước hết xin hãy nói về “tâm trạng” của anh con trai xưng “tôi” trước sự thay đổi của “em” và cái tứ thơ hoài cổ được nhắc đến ở trên.

“Em” trong thơ Nguyễn Bính chỉ thay đổi ở trang phục, từ truyền thống (áo lụa sồi, dây lưng đũi, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, quần nái đen) sang tân thời (khăn nhung quần lĩnh, áo cài khuy bấm) thì đã rõ. Nhưng, “em” trong thơ của Phạm Công Trứ đâu phải chỉ thay đổi ở trang phục? Cô ấy dường như đã thay đổi tất cả, từ vẻ bề ngoài đến tính cách đã hoàn toàn “mất gốc”. Chân dung thiếu nữ này được tạo dựng hoàn chỉnh hơn, tỉ mỉ hơn, có “thuở ấy” của tuổi thơ “chân đất đầu trần” với biết bao kỉ niệm đẹp gắn bó máu thịt nơi vùng quê lấm láp, vất vả, lam lũ…; và có “Bây giờ xinh đẹp là em” từ thành phố “về quê ăn tết”. Em của hôm nay đối lập hoàn toàn với cô bé lên bảy “theo tôi suốt ngày” thuở nào. Trang phục, lời nói, tiếng cười, thái độ… dường như đều toát lên sự lạnh lùng, xa cách và cả đến đáng sợ. Em diện bộ quần áo model nhất của thời ấy (áo chẽn quần bò). Gặp lại một người con trai từng gắn bó suốt một thời tuổi thơ, lại vào dịp tết nữa, nhưng thay vì phải mừng rỡ đến vỡ òa, thì em lại hoàn toàn “hững hờ” hỏi một câu chiếu lệ chứa đầy hàm ý châm chọc: “Anh chưa lấy vợ còn chờ đợi ai” (anh định chờ để lấy tôi đấy à?). Rồi em cười, nhưng không phải là tiếng cười giòn tan, trong trẻo mang vẻ đẹp đặc trưng của thiếu nữ mà lại là “chuỗi cười” của một kẻ tự đắc, tự cho mình cao sang, “đẳng cấp” hơn người bạn gắn bó thuở ấu thơ lam lũ nhiều kỉ niệm. Cô xa lánh, vô cảm, coi thường, khinh thị…

Tâm trạng của anh con trai xưng “tôi” ở hai bài thơ cũng rất khác nhau: Trong Chân quê là sự khao khát chờ mong của lứa đôi, nên mới chọn lựa nơi gặp gỡ ở rất xa, rất riêng tư và lãng mạn (“Đợi em ở mãi con đê đầu làng”). Và cũng chỉ một chút “hương đồng gió nội” ở cô bay đi cũng đã đủ “làm khổ” anh đủ điều. Vậy mà anh không dám trách cứ mà chỉ van nài để níu giữ: “Nói ra sợ mất lòng em/ Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa…”

Trong khi đó, người con trai trong Lời thề cỏ may chỉ ngẫu nhiên gặp lại “em” của ngày xưa. Từ khi lên thành phố cô đã quên tất cả, giữa họ dường như không còn một mối dây liên hệ nào, nhưng anh vẫn chôn chặt trong lòng những kỉ niệm rất đẹp và thiêng liêng như “lời thề cỏ may” của tuổi thơ thuở nào. Và trước sự hờ hững, xa cách đến lạnh lùng của cô, anh cảm thấy khoảng trời tuổi thơ trong veo đã vỡ vụn, và “lời thề cỏ may” của tuổi thơ anh dứt khoát phải được gỡ bỏ.

3. Vấn đề thứ hai có liên quan đến nhận xét Phạm Công Trứ “bắt chước”, “nhại” lại “một tứ thơ hoài cổ, muốn níu giữ những gì đã quen thuộc từ “ngày xửa ngày xưa”, theo chúng tôi cũng cần phải được nhìn nhận ở phạm vi rộng hơn, để thấy đây dường như đã là motif quen thuộc được sử dụng trong sáng tạo văn chương. Trong văn học, sự đổi thay của xã hội thường dễ nhận ra qua chiếc “hàn thử biểu” là phụ nữ. Trước Nguyễn Bính, ta cũng đã thấy điều này qua thơ Nguyễn Khuyến (Cái gái thời này gái mới ngoan/ Quyết lòng ẩu chiến với Tây đoan), Tú Xương (Chí cha chí chát khua giày dép/ Đen thủi đen thui cũng lượt là). Cùng thời Âu hóa với Nguyễn Bính, ta gặp rất nhiều trong văn học hiện thực phê phán (tiêu biểu nhất là sáng tác của Nguyễn Công Hoan: “Thế là mợ nó đi Tây, Cô Kếu gái tân thời, Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn, Một tấm gương sáng…). Và đến thời toàn cầu hóa và “âm thịnh” như hiện nay, sự biến đổi của xã hội dữ dội hơn bao giờ hết. Sự biến đổi ấy được nhìn nhận qua “gương mặt” của phụ nữ xem ra cũng là điều bình thường, điều quan trọng là nó đã mang lại hiệu quả nghệ thuật thật sự.

 “Em” trong Chân quê chủ yếu được nhìn ở khoảng cách không quá xa, cũng không quá gần, không tỉ mỉ. Nhưng “tôi” thì ngược lại, tình cảm, thái độ và tính chất của mối quan hệ  với “em” được thể hiện xuyên suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Rất nhiều trạng thái tình cảm được thể hiện: “đợi”, “làm khổ”, “sợ mất lòng”, “van em”… Điều này có liên quan mật thiết đến cách nhìn và cùng với nó là cách thể hiện mang đặc trưng của văn học lãng mạn. Với Lời thề cỏ may thì khác: chân dung “em” được tạo dựng đầy đủ, sắc nét ở cả “thuở ấy” và “bây giờ”; còn chân dung “tôi” nhạt hơn, dường như không biểu hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc bên trong, mà chỉ có hành động “gỡ lời thề cỏ may” rất dứt khoát ở cuối bài thơ. Sự khác biệt này có nguyên nhân thuộc về thời đại, nhưng xét đến cùng là thuộc về thuộc về cách nhìn nhận và cá tính sáng tạo của hai nhà thơ         

Là một nhà thơ lãng mạn đậm chất truyền thống - “thi sĩ của yêu thương”, nên có thể thấy các sáng tác của Nguyễn Bính luôn có sự kết hợp hài hòa giữa “sự” - “cảnh” và “tình”. Ông là “đối cực” với Xuân Diệu - nhà thơ “mới nhất trong các nhà Thơ mới”, nhà thơ của cảm xúc mãnh liệt, khát khao giao cảm với đời. Không phải ngẫu nhiên mà trong thơ Nguyễn Bính thường ít nhiều có sự hiện diện của một chuyện tình dân dã, hay những cảnh sắc đặc trưng của nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Và quyện hòa cùng với đó là tình cảm, tâm trạng của cái tôi trữ tình rất mãnh liệt ở bên trong, nhưng thường rất kín đáo trong cách thổ lộ ra bên ngoài. Nguyễn Bính không thể được coi là “ông hoàng của thơ tình” như Xuân Diệu, cho dù ông cũng đa tình không kém. Tình yêu trong thơ ông không có nhiều cung bậc, mà thường chỉ thể hiện ở mức độ khởi đầu (“tương tư” với “chín nhớ mười mong”, “ngày qua, ngày lại, qua ngày”, “thương nhau” mà chỉ “qua cửa tò vò nhìn nhau”…). Là nhà thơ “mới nhất”, Xuân Diệu luôn “cực đoan” trong nhìn nhận và biểu hiện: “Làm sao sống được mà không yêu”, “Yêu là chết ở trong lòng một ít”, “Gần thêm nữa, thế hãy còn xa lắm”, “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”… Nguyễn Bính truyền thống nên hình tượng thơ ông luôn mang cấu trúc hài hòa, cân xứng, trong đó có sự hài hòa giữa đối tượng trữ tình và nhân vật trữ tình.

Trong khi đó, Phạm Công Trứ là con đẻ của một thời đại khác, thời đại “toàn cầu hóa” với những đổi thay đến chóng mặt của cuộc sống xã hội. Và bản thân ông mang cách nhìn của một nhà luật học được đào tạo bài bản ở châu Âu, nơi được xem là mảnh đất duy lí. Cũng như tất cả những người làm văn chương chân chính, ông luôn mong muốn giữ lại được trọn vẹn những gì là quý giá như vàng, như ngọc và thiêng liêng như lời thề (trong đó có “lời thề cỏ may” của tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng). Nhưng thực tế cuộc sống xã hội đã cho ông hiểu rằng, đó là điều không dễ. Phạm Công Trứ đã viết Lời thề cỏ may không phải với cái nhìn lãng mạn gắn liền với một “chuyện tình” thoáng chút “buồn mà đẹp” như Nguyễn Bính đã viết Chân quê. Với cái nhìn tỉnh táo và chân thực, ông đã viết về sự đổi thay của lòng người, tình người trong xã hội hiện tại. Mở đầu bài thơ ông đưa ra một định đề nói rõ sự băn khoăn, ngờ vực: “Làm sao quên được tuổi thơ/ Tuổi vàng, tuổi ngọc, tôi ngờ lời ai”. Toàn bộ 14 câu thơ tiếp theo chính là minh chứng cho định đề ấy, để rồi bài thơ kết thúc bằng hai câu thơ diễn tả sự dứt khoát không chút vương vấn trong tình cảm “tôi” dành cho “em”: “Trăng vàng đêm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thề cỏ may”.

4. Ra đời sau bài thơ Chân quê nửa thế kỉ và không thể không chịu ảnh hưởng từ tác phẩm rất nổi tiếng ấy của Nguyễn Bính, nhưng Lời thề cỏ may vẫn có chỗ đứng riêng trong đời sống văn học Việt Nam. Cả Chân quê của Nguyễn Bính và Lời thề cỏ may của Phạm Công Trứ đã và vẫn sẽ làm cho người đọc hôm nay nhớ về làng quê mình và thêm yêu quê hương mình.

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
0
0
+4đ tặng
Dưới đây là sự so sánh giữa hai tác phẩm "Lời thề cỏ may" của Phạm Công Trứ và "Chân quê" của Nguyễn Bính.


 Tác phẩm xoay quanh tình yêu và sự thủy chung của người nông dân. Tình yêu của nhân vật chính với cô gái làng, cùng với ước vọng được sống hạnh phúc bên nhau, thể hiện một tình cảm chân thành, sâu sắc và đầy cảm xúc. Lời thề giữa hai người giữa cánh đồng cỏ may thể hiện niềm tin tưởng vào tình yêu, dù trong hoàn cảnh khó khăn.
 
: Tác phẩm là một bức tranh về cuộc sống và tình yêu quê hương. Nguyễn Bính khắc họa hình ảnh chân thực của người nông dân và những kỷ niệm gắn bó với quê hương. Tác phẩm không chỉ thể hiện tình yêu mà còn mang trong mình nỗi nhớ quê hương và những giá trị văn hóa truyền thống.


 Nội dung tác phẩm chứa đựng sự lãng mạn, thể hiện tâm tư của người nông dân khi phải rời xa quê hương để mưu sinh. Lời thề của nhân vật không chỉ đơn thuần là một lời hứa mà còn là sự khẳng định tình yêu vĩnh cửu, mang lại hy vọng cho người đọc về một tình yêu bền chặt.
 
 Tác phẩm thể hiện nỗi nhớ quê hương, những kỷ niệm ngọt ngào gắn bó với mảnh đất nơi mình sinh ra. Tình yêu quê hương trở thành động lực, nguồn cảm hứng để người nông dân vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Nguyễn Bính đã khéo léo thể hiện sự giản dị mà đẹp đẽ trong tình yêu quê hương.


 Phong cách thơ trữ tình với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc nhưng lại rất giàu hình ảnh và cảm xúc. Tác giả sử dụng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống nông dân để diễn tả tâm tư của nhân vật, tạo nên một không gian thơ đầy chất dân gian.
 
Nguyễn Bính sử dụng thể thơ tự do, kết hợp giữa tình cảm và cảm hứng lãng mạn. Ngôn từ của ông rất giàu tính nhạc, tạo cảm giác du dương và sâu lắng. Hình ảnh quê hương hiện lên qua những nét vẽ tinh tế, đầy chất thơ.

 Cỏ may trở thành biểu tượng cho tình yêu vĩnh cửu và sự thủy chung. Hình ảnh cánh đồng xanh tươi gợi lên sự sống và hy vọng, là nơi chứng kiến những kỷ niệm đẹp của nhân vật.
 Hình ảnh quê hương hiện lên qua những chi tiết giản dị như cánh đồng, con sông, và hình ảnh người nông dân lam lũ. Những biểu tượng này mang đến cho người đọc cảm giác gần gũi, thân thuộc và thể hiện sâu sắc nỗi nhớ quê.
 
 
Cả hai tác phẩm đều thể hiện tình yêu, nỗi nhớ quê hương và khát vọng về cuộc sống tươi đẹp. "Lời thề cỏ may" mang đến cho người đọc cảm xúc lãng mạn, chân thành về tình yêu, trong khi "Chân quê" lại gợi nhớ về giá trị văn hóa, truyền thống và tình yêu quê hương. Mỗi tác phẩm đều có những giá trị riêng, góp phần làm phong phú thêm nền văn học Việt Nam.
Đặng Mỹ Duyên
Chấm điểm ❤️

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm
Bài tập liên quan
Bài tập Ngữ văn Lớp 12 mới nhất

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường

Học ngoại ngữ với Flashcard

×
Gia sư Lazi Gia sư
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo