Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
"Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác, thể hiện đầy đủ nhất tài năng nghệ thuật xuất sắc, độc đáo của nhà văn Nam Cao. Bút pháp điển hình hoá đạt tới trình độ bậc thầy trong xây dựng nhân vật và nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc chính là những nét nghệ thuật nổi bật trong “Chí Phèo”
Chí Phèo, Bá Kiến là những điển hình nghệ thuật bất hủ. Họ vừa tiêu biểu cho một loại người có bề dày xã hội, vừa là những con người rất cụ thể, có sức sống nội tại mạnh mẽ. Khác với những nhân vật của một số nhà văn đương thời có chức năng chủ yếu là khái quát tính cách nhân vật. “Chí Phèo” của Nam Cao đã khái quát một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội lúc bấy giờ; hiện tượng những người nông dân nghèo lương thiện do bị áp bức bóc lột đè nén nặng nề bị đẩy vào con đường tha hoá lưu manh. Tuy nhiên nhân vật của Nam Cao còn thể hiện như một nhân vật có cá tính hết sức độc đáo, không lặp lại, vừa đa dạng vừa thống nhất. Chí Phèo vừa là kẻ bán rẻ cả nhân tính, nhân hình để tồn tại, vừa là kẻ dám thủ tiêu sự sống của mình khi nhân phẩm đã trở về. Chí Phèo vừa là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một thằng triền miên chìm trong cơn say đến mất cả lý trí, vừa là kẻ khao khát lương thiện, muốn làm hoà với mọi người, vừa là một kẻ nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất, tỉnh táo nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát sâu sắc về quyền được làm người lương thiện đến mức Bá Kiến cũng phải ngạc nhiên, Chí Phèo vừa là kẻ cố cùng, vừa là người tự xưng “anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”.
“Chí Phèo” là một trong những truyện ngắn đặc sắc mà dường như dung lượng hiên thực được phản ánh trong trạng thái dồn nén, chứa nhiều mâu thuẫn, với nhiều nhân vật, và tình huống khác nhau…tác phẩm như mang tầm vóc của một tiểu thuyết. Chúng ta có thể dễ nhận thấy và phân tích theo vấn đề ý nghĩa nhân sinh của truyện, có thể phân tích theo tuyến nhân vật, hoặc cũng có phân tích-từng mối quan hệ giữa nhân vật chính là Chí Phèo với làng Vũ Đại và một số nhân vật có quan hệ trực tiếp (Bá Kiến, thị Nở). Dù là theo cách nào đi chăng nữa thì tất cả đều làm nổi bật nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật miêu tả nhân vật và ngôn ngữ truyện.
Hình ảnh làng Vũ Đại được ví như một hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng ,hiện thực cuộc sống được khơi ra từ những tình huống truyện đặc sắc và những chi tiết nhỏ nhất nhưng khiến độc giả không thể bỏ qua. Truyện ngắn “Chí Phèo” mở đầu và kết thúc theo kết cấu vòng, khi mở đầu truyện với hình ảnh cái lò gạch bỏ hoang thì kết thúc truyện cũng như vậy, đó là chi tiết khi biết chí phèo tự sát, Thị Nở bỗng đã nhìn ngay xuống bụng mình và lại nghĩ ngay tới hình ảnh cái lò gạch, không biết một cuộc sống sẽ bắt đầu như thế nào, kết thúc mở khiến cho độc giả có nhiều liên tưởng thú vị. Ngôn ngữ trong tác phẩm là một điều không thể bỏ qua, lời trần thuật được xáo trộn, lắp ghép, đan xen không luân theo trình tự tuyến tính của.cốt truyện. Nam Cao dường như đã bắt đầu bằng hình ảnh Chí khật khưỡng say và vừa đi vừa chửi. Chân dung nhân vật bước đầu hiện ra với những đường nét thật ấn tượng, buộc người đọc chú ý ngay từ khi mới đặt tay lên trang giấy. Ông đã thật tài tình khi đan xen, trộn lẫn lời nhân vật và lời người kể truyện, nhiều đơn vị lời văn có thể là của nhân vật vừa là của người kể chuyện. Thông qua đây, việc sử dụng này có ý nghĩa rất lớn đến việc đi sâu vào thẻ giới nội tâm rất phức tạp và tinh tế của nhân vật. Chính bởi nhờ vậy chân dung nhân vật hiện ra hết sức chân thực và sống động.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở là một tình huống truyện đặc sắc, giống như một tia chớp lóe lên giữa màn đêm tăm tối, đưa Chí từ cõi quỷ trở về với cõi người, biết yêu thương và khao khát được yêu thương. Và từ đó, sự kiện gặp gỡ Thị Nở đã làm nên những trang văn rực sáng cảm hứng nhân đạo của Nam Cao.
Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo diễn ra từ từ, được Nam Cao miêu tả tinh vi từ những dấu hiệu đơn giản nhất. Trước hết là sự thức tỉnh giác quan. Hắn nhận ra những dấu hiệu của cuộc sống qua ánh nắng, tiếng chèo gõ mái, tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ…Đó là âm thanh của cuộc sống bình yên, dân dã. Khi hắn biết nghĩ đến mình, biết buồn, thấy già mà cô độc, thấy rằng cô độc còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau, biết ước mơ một gia đình nho nhỏ là khi ý thức đã hoàn toàn trở lại trong hắn, cũng chính là lúc hắn ý thức được thân phận thê thảm của mình.
Quá trình thức tỉnh ấy của Chí, bát cháo hành của Thị Nở có vị trí đặc biệt. Bát cháo hành đơn sơ mà đong đầy tình người ấy đã hồi sinh bản tính lương thiện của Chí, cái bản chất đẹp đẽ mà bấy lâu đã bị che lấp, bị vùi dập. Nói cách khác, tình người của Thị Nở đã đánh thức tính người còn sót lại của Chí Phèo.
Tâm trạng của Chí Phèo khi ăn bát cháo hành được nhà văn miêu tả rất tài tình. Ngạc nhiêu, băn khoăn, vừa vui vừa buồn, giống như là ăn năn, hối hận... mắt hắn ươn ướt bởi đây là lần đầu tiên hắn được chăm sóc, yêu thương của một người đàn bà. Chí thèm lương thiện, Chí mong ước được làm hòa với mọi người, và hơn thế, Chí ao ước có một gia đình, một mái ấm.
Lời nói mộc mạc mà chân tình với Thị Nở mới xúc động và tha thiết làm sao: Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ? Hay mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui. Cái mong ước bình dị và đáng quý biết bao. Ở một nhà cho vui”, ấy là ước mơ chân chính về một tổ ấm gia đình mà Chí ấp ủ ngày nào. Hóa ra bên trong con quỷ vẫn vẹn nguyên phẩm chất người. Đó là con người đích thực với ước mơ hạnh phúc gia đình.
Nhưng tiếc rằng, mầm hạnh phúc vừa mới nảy nở ấy của Chí Phèo nhanh chóng bị héo úa. Một người nào đó đã có một liên tưởng thú vị, Chí Phèo gặp Thị Nở giống như một người chết đuối vớ phải cọc, nhưng không ngờ lại là rễ bèo. Hy vọng để rồi tuyệt vọng. Bởi Thị Nở là một người dở hơi, năm ngày chung sống cùng Chí, thị chợt nhớ mình còn có một bà cô, thị phải về hỏi ý kiến xem đã.
Và rồi, những lời lẽ chua xót và uất ức của người đàn bà ấy đã thổi bùng lên cơn giận của Thị Nở, thị lộn cả ruột. Bao nhiêu bực tức thị đã trút cả vào Chí. Hành động “Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân” đã biến giấc mơ về một gia đình nho nhỏ của Chí Phèo thành dang dở. Chí Phèo bị cự tuyệt tình yêu. Giấc mơ hạnh phúc vụt tan như bong bóng xà phòng. Hạnh phúc trong tầm tay bỗng dưng tuột mất. Còn gì đau khổ . “Hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Giọt nước mắt của nỗi đau tột cùng. Chí không còn cơ hội quay đầu lại. Lời bà cô Thị Nở “đàn ông đã chết hết cả rồi sao, mà lại đi lấy một thằng không cha, chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ” hay chính là định kiến của xã hội đã đẩy Chí Phèo vào bi kịch. Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Ngòi bút của Nam Cao xoáy vào nỗi đau của Chí Phèo để người đọc căm giận và xót xa. Căm giận cái xã hội thực dân phong kiến ngày xưa đã xô đẩy người nông dân hiền lành lương thiện như Chí thành kẻ tha hóa, không còn cơ hội làm lại cuộc đời. Xót thương cho một phận người đau khổ sinh ra bất hạnh rồi chết trong tuyệt vọng, khổ đau.
Cái chết của Chí Phèo để lại nhiều ám ảnh. Cái chết để giải thoát cho một kiếp người đau khổ, cái chết để được làm người theo đúng nghĩa. Năm ngày sống cùng Thị Nở là năm ngày ngắn ngủi Chí được sống như một con người và chết như một con người.
Nhìn lại hai biến cố trong cuộc đời Chí Phèo, ta có thể liên tưởng, vào tù đẩy Chí Phèo vào bóng tối của cái xấu, cái ác; gặp Thị Nở đưa Chí về với ánh sáng, ánh sáng của tình người, của khát vọng làm người lương thiện cho dù ánh sáng ấy chỉ lóe lên chốc lát. Ngòi bút bề ngoài dửng dưng, lạnh lùng mà đằm thắm yêu thương của Nam Cao đã viết nên những trang văn ám ảnh mà da diết một tấm lòng yêu thương dành người nông dân trong xã hội cũ.
Truyên ngắn càng về cuối càng trở nên hấp dẫn, giàu tính kịch. Nhân vật Chí Phèo được đồng cảm, xót thương hơn. Hình ảnh ám ảnh người đọc là hình ảnh Chí Phèo giãy đành đạch, nằm giữa vũng máu ở sân nhà Bá Kiến. Hắn giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước khi chết Chí phèo còn hét lên “Ai cho tao làm người lương thiện”, xã hội này không cho, con người cũng không cho. Đúng là một bi kịch quá đau lòng đối với người nông dân trong xã hội đầy rẫy bất công. Tư tưởng nhân đạo và bút lực phi thường của Nam Cao khơi gợi cho người đọc đương thời lòng căm phẫn xã hội xấu xa thối nát; nhắc nhủ những thế hệ sau Cách mạng tháng Tám phải biết quí cuộc sống hiện tại trên góc độ đối chiếu, so sánh. Không chỉ riêng về nhân vật Chí Phèo, các nhân vật khác của Nam Cao, suy ngẫm từ phương diện nghệ thuật, giúp chúng ta lĩnh hội tác phẩm trọn vẹn, sâu sắc hơn.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |