Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Phân tích đoạn trích Kiều Nguyệt Nga trước khi cống giặc ô qua

Phân tích đoạn trích Kiều Nguyệt Nga  trước khi cống giặc ô qua
2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
360
Tham khảo câu trả lời từ Trợ lý ảo Lazi
Đoạn trích "Kiều Nguyệt Nga trước khi cống giặc Ô" nằm trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, một kiệt tác của văn học Việt Nam. Đoạn trích này chứa đựng những nội dung và cảm xúc sâu sắc, thể hiện tình cảm của nhân vật Kiều Nguyệt Nga cũng như những xung đột nội tâm mà cô phải đối mặt trước một quyết định đau đớn.

### Phân tích nội dung:

1. **Tình cảm yêu thương**:
- Trước khi bị cống nạp cho giặc Ô, Kiều Nguyệt Nga thể hiện sự yêu thương sâu sắc đối với quê hương, đất nước và những người thân yêu. Cảm xúc này không chỉ đơn thuần là sự quyến luyến mà còn là nỗi đau một người phụ nữ đang phải đối mặt với số phận bi thảm. Tình cảm dành cho gia đình và quê hương trở thành động lực và lý do để cô cố gắng vượt qua nỗi đau trước tình cảnh nghiệt ngã.

2. **Nỗi oan trái và sự hy sinh**:
- Kiều Nguyệt Nga là hiện thân cho những giá trị nhân văn, tấm lòng thủy chung. Cô không chỉ lo nghĩ cho chính mình mà còn cho những người thân, cho dân tộc. Nỗi oan trái của cô thể hiện sự bất công trong xã hội phong kiến, nơi mà số phận phụ nữ thường bị định đoạt bởi những quy luật và quyền lực của nam giới.

3. **Khát khao tự do và nhân phẩm**:
- Trong đoạn trích, Kiều Nguyệt Nga thể hiện khát khao mãnh liệt về tự do và nhân phẩm. Mặc dù bị ép buộc nhưng cô vẫn giữ được phẩm giá của mình, không hề khuất phục trước sự áp bức. Cô mong muốn được sống trong một xã hội công bằng, nơi mà những giá trị con người được tôn trọng.

4. **Bi kịch và lòng kiêu hãnh**:
- Đoạn trích cũng khắc họa một bi kịch lớn trong tâm hồn của nhân vật. Mặc dù phải chịu đựng khổ sở, nhưng Kiều Nguyệt Nga vẫn giữ vững lòng kiêu hãnh và không từ bỏ hy vọng. Sự mạnh mẽ trong tâm hồn của cô là một nét đẹp, một hình mẫu về cả sức sống lẫn nghị lực của phụ nữ trong bối cảnh đau thương.

### Nghệ thuật:

- **Ngôn ngữ tinh tế**: Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ uyển chuyển, giàu biểu cảm để thể hiện tâm trạng của Kiều Nguyệt Nga. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh và biện pháp tu từ vô cùng khéo léo giúp người đọc cảm nhận sâu sắc nỗi đau và sự trái khoáy trong số phận của nhân vật.
- **Nghệ thuật tự sự**: Cách kể chuyện linh hoạt, lồng ghép giữa hiện tại và quá khứ tạo nên chiều sâu tâm lý cho nhân vật. Điều này giúp người đọc hình dung rõ ràng về bối cảnh xã hội và những giá trị nhân văn mà tác phẩm muốn gửi gắm.

### Kết luận:

Đoạn trích "Kiều Nguyệt Nga trước khi cống giặc Ô" không chỉ khắc họa một bi kịch phản ánh số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến mà còn mang giá trị tư tưởng sâu sắc về tình yêu quê hương, lòng kiêu hãnh và khát vọng tự do. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga trở thành biểu tượng cho sức mạnh và sự kiên cường, đánh thức trong người đọc những suy nghĩ về nhân phẩm và giá trị của con người.
2
0
Vũ Đại Dương
01/11 21:55:28
+5đ tặng
Mười ngày đã tới ải Đồng,

Minh mông biển rộng đùng đùng sóng xao.

Đêm nay chẳng biết đêm nào,

Bóng trăng vàng vặc bóng sao mờ mờ.

Trân trời lặng lẽ như tờ,

Nguyệt Nga nhớ nỗi tóc tơ chẳng còn.

Than rằng: “Nọ nước kìa non,

Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu?”

Quân hầu đều đã ngủ lâu,

Lén ra mở bức rèm châu một mình:

“ Vắng người có bóng trăng thanh,

Trăm năm xin gửi chút tình lại đây.

Vân Tiên anh hỡi có hay?

Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng”.

Than rồi lấy tượng vai mang,

Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.

Không thể nào mua chuộc, ép buộc Kiều Nguyệt Nga lấy con trai mình, quan thái sư đã trả thù một cách xảo quyệt, hèn hạ. Ăn không được thì phải đạp đổ. Kiều Nguyệt Nga trở thành vật hi sinh. Người đẹp trở thành cống phẩm dâng chúa Ô Qua để giặc lui binh.

Đoạn thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của Nguyệt Nga trên đường đi cống giặc và ca ngợi tấm lòng son sắt thủy chung trong tình yêu của nàng.

Nguyệt Nga là một thiếu nữ xinh đẹp “Vóc ngọc mình vàng” có thị tì Kim Liên hầu hạ. Nàng xuất thân trong tầng lớp quý tộc, là “con quan tri phủ ở miền Hà Khê”. Nguyệt Nga là một con người giàu lòng trung nghĩa; trước hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên, nàng đã nói:

Gẫm câu báo đức thù công,

Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.

Cảm phục trước hành động anh hùng và hào hiệp của người con trai xa lạ vừa đánh cướp cứu mình, Kiều Nguyệt Nga đã khắc sâu trong trái tim mình hình ảnh Lục Vân Tiên, và nàng đã vẽ bức hình chàng, luôn mang theo bên mình. Con gái Kiều Công quả là một thiếu nữ đa cảm, đa tình. Mối tình đơn phương ấy thật đẹp và son sắt thủy chung.

Bị bắt đi cống giặc là một thử thách đầy bi kịch. Đã mười ngày trôi qua, Kiều Nguyệt Nga đã đi tới ải Đồng, bên này là quê hương mình, bên kia là xứ người, là đất giặc Ô Qua.

Dòng sông bao la “mênh mông”, tiếng sóng vỗ “đùng đùng”trăng “ vằng vặc?”, sao "mờ mờ” gần xa. Cả một bầu trời “lặng lẽ như tờ”. Nguyễn Đinh Chiểu đã lấy ngoại cảnh sông, nước, trăng, sao để diễn tả tâm trạng cô đơn của người đẹp trên đường đi cống; lấy tĩnh để tả động, trời thì “lặng lẽ” mà trong lòng kẻ bạc mệnh thì quặn đau tê tái và cô đơn. Sóng vỗ trên sông hay đang vỗ trong lòng nàng?

Mười ngày đã tới ải Đồng,

Minh mông biển rộng đùng đùng sóng xao.

Đêm nay chẳng biết đêm nào,

Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ.

Trên trời lặng lẽ như tờ.

Trước cảnh xa lạ, bao la và mịt mờ ấy, Kiều Nguyệt Nga cất lời than. Vừa thương mình vừa thương người quân tử mà mình đã mang nặng ân sâu; chàng trai anh hùng hào hiệp mà mình đã yêu dấu sắt son, đã thủ tiết đợi chờ:

Than rằng: “Nọ nước kìa non,

Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu ?

“Người” mà Kiều Nguyệt Nga nhắc đến chính là Lục Vân Tiên. Câu hỏi “người còn về đâu” chứa đầy tâm trạng đau đớn, cô đơn và sầu tủi.

Nếu như Nguyễn Du dùng hai câu tả cảnh vật giờ khắc quyết định tự tử của Kiều trên sông Tiền Đường: “Cửa bồng vội mở rèm châu- Trời cao sông rộng một màu bao la” thì ở đây, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã viết cái phút đớn đau ấy của Kiều Nguyệt Nga bằng những vần thơ ứa lệ:

Quân hầu đều đã ngủ lâu,

Lén ra mở bức rèm châu một mình.

Giai nhân mệnh bạc tự thương và tự than thân. Vầng trăng trên trời cao là chứng nhân cho lời thề son sắt thủy chung, cho quyết tâm “giữ ngọc gìn vàng”  của người thiếu nữ, "thú tiết'” bằng cái chết để giữ trọn "một tấm lòng ngay” với tình nhân mà mình đã từng tôn thờ, đã từng ôm ấp:

Vắng người có bóng trăng thanh,

Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.

Vân Tiên anh hỡi có hay?

Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng.

Bao nhiêu nước mắt đã chảy xuống? Để giữ trọn “tấm lòng ngay với chàng”  Kiều Nguyệt Nga đã hành động một cách quyết liệt:

Than rồi lấy tượng vai mang,

Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.

Lúc xa cách thì vẽ chân dung người yêu để sớm tối được ôm ấp, ngắm nghía. Lúc sống trong lận đận khó khăn, hình tượng người yêu là nơi nương tựa tinh thần. Lúc nhảy xuống sông tự tử, Kiều Nguyệt Nga vẫn vai mang tượng Lục Vân Tiên đi sang thế giới bên kia với lời nguyền son sắt thủy chung. Cũng là bi kịch giai nhân xưa nay, nhưng mỗi người một khác. Cũng là "phận hồng nhan", “chốn đoạn trường'” nhưng nào ai giống ai? Sau khi Từ Hải vì mắc lừa Hồ Tôn Hiến mà bị giết chết, Kiều phai hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan, rồi bị ép lấy viên thổ quan, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử:

Giết chồng mà lại lấy chồng,

Mặt nào còn đáng ở trong cõi đời?

Thôi thì một thác cho rồi,

Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông.

Kiều phải tự tử vì đau khổ và ân hận. Kiều Nguyệt Nga phải nhảy xuống sông để  ugửi chút  tình" với trăng nước, để giữ tròn “tấm lòng ngay” với Lục Vân Tiên. Tiết hạnh của Kiều Nguyệt Nga vằng vặc như trăng sao. Hành động tự tử của Kiều Nguyệt Nga là để thủ tiết với Lục Vân Tiên, là để chống lại mọi âm mưu hèn hạ, xảo quyệt của tên Thái Sư, vị đại quan đầu triều.

Đoạn thơ đã thể hiện bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Đình Chiểu. Sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả, tự sự và độc thoại trữ tình đã tô đậm tính cách Kiều Nguyệt Nga: son sắt, thủy chung và tiết hạnh.

Nhân vật Kiều Nguyệt Nga là một nhân vật lí tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, đã nêu cao tấm gương tiết hạnh của một giai nhân:

Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.

Phẩm giá của người con gái khuê các trong xã hội ngày xưa được thể hiện qua đoạn thơ này vẫn ít nhiều làm ta xúc động.

 

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
2
0
Tâm Như
01/11 21:55:40
+4đ tặng

 Không thể nào mua chuộc, ép buộc Kiều Nguyệt Nga lấy con trai mình, quan thái sư đã trả thù một cách xảo quyệt, hèn hạ. Ăn không được thì phải đạp đổ. Kiều Nguyệt Nga trở thành vật hi sinh. Người đẹp trở thành cống phẩm dâng chúa Ô Qua để giặc lui binh.

   Đoạn thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của Nguyệt Nga trên đường đi cống giặc và ca ngợi tấm lòng son sắt thủy chung trong tình yêu của nàng.

   Nguyệt Nga là một thiếu nữ xinh đẹp "Vóc ngọc mình vàng" có thị tì Kim Liên hầu hạ. Nàng xuất thân trong tầng lớp quý tộc, là "con quan tri phủ ở miền Hà Khê". Nguyệt Nga là một con người giàu lòng trung nghĩa; trước hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên, nàng đã nói:

" Gẫm câu báo đức thù công, Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi"

   Cảm phục trước hành động anh hùng và hào hiệp của người con trai xa lạ vừa đánh cướp cứu mình, Kiều Nguyệt Nga đã khắc sâu trong trái tim mình hình ảnh Lục Vân Tiên, và nàng đã vẽ bức hình chàng, luôn mang theo bên mình. Con gái Kiều Công quả là một thiếu nữ đa cảm, đa tình. Mối tình đơn phương ấy thật đẹp và son sắt thủy chung.

   Bị bắt đi cống giặc là một thử thách đầy bi kịch. Đã mười ngày trôi qua, Kiều Nguyệt Nga đã đi tới ải Đồng, bên này là quê hương mình, bên kia là xứ người, là đất giặc Ô Qua.

   Dòng sông bao la "mênh mông", tiếng sóng vỗ "đùng đùng"trăng " vằng vặc?" , sao "mờ mờ" gần xa. Cả một bầu trời "lặng lẽ như tờ". Nguyễn Đinh Chiểu đã lấy ngoại cảnh sông, nước, trăng, sao để diễn tả tâm trạng cô đơn của người đẹp trên đường đi cống; lấy tĩnh để tả động, trời thì "lặng lẽ" mà trong lòng kẻ bạc mệnh thì quặn đau tê tái và cô đơn. Sóng vỗ trên sông hay đang vỗ trong lòng nàng?

" Mười ngày đã tới ải Đồng, Minh mông biển rộng đùng đùng sóng xao. Đêm nay chẳng biết đêm nào, Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ. Trên trời lặng lẽ như tờ."

   Trước cảnh xa lạ, bao la và mịt mờ ấy, Kiều Nguyệt Nga cất lời than. Vừa thương mình vừa thương người quân tử mà mình đã mang nặng ân sâu; chàng trai anh hùng hào hiệp mà mình đã yêu dấu sắt son, đã thủ tiết đợi chờ:

" Than rằng: "Nọ nước kìa non, Cảnh thời thấy đó, người còn về đâu ?"

   "Người" mà Kiều Nguyệt Nga nhắc đến chính là Lục Vân Tiên. Câu hỏi "người còn về đâu" chứa đầy tâm trạng đau đớn, cô đơn và sầu tủi.

   Nếu như Nguyễn Du dùng hai câu tả cảnh vật giờ khắc quyết định tự tử của Kiều trên sông Tiền Đường: "Cửa bồng vội mở rèm châu- Trời cao sông rộng một màu bao la" thì ở đây, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã viết cái phút đớn đau ấy của Kiều Nguyệt Nga bằng những vần thơ ứa lệ:

" Quân hầu đều đã ngủ lâu, Lén ra mở bức rèm châu một mình."

   Giai nhân mệnh bạc tự thương và tự than thân. Vầng trăng trên trời cao là chứng nhân cho lời thề son sắt thủy chung, cho quyết tâm "giữ ngọc gìn vàng" của người thiếu nữ, "thú tiết'" bằng cái chết để giữ trọn "một tấm lòng ngay" với tình nhân mà mình đã từng tôn thờ, đã từng ôm ấp:

" Vắng người có bóng trăng thanh, Trăm năm xin gởi chút tình lại đây. Vân Tiên anh hỡi có hay? Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng."

   Bao nhiêu nước mắt đã chảy xuống? Để giữ trọn "tấm lòng ngay với chàng" Kiều Nguyệt Nga đã hành động một cách quyết liệt:

" Than rồi lấy tượng vai mang, Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay."

   Lúc xa cách thì vẽ chân dung người yêu để sớm tối được ôm ấp, ngắm nghía. Lúc sống trong lận đận khó khăn, hình tượng người yêu là nơi nương tựa tinh thần. Lúc nhảy xuống sông tự tử, Kiều Nguyệt Nga vẫn vai mang tượng Lục Vân Tiên đi sang thế giới bên kia với lời nguyền son sắt thủy chung. Cũng là bi kịch giai nhân xưa nay, nhưng mỗi người một khác. Cũng là "phận hồng nhan", "chốn đoạn trường'" nhưng nào ai giống ai? Sau khi Từ Hải vì mắc lừa Hồ Tôn Hiến mà bị giết chết, Kiều phai hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan, rồi bị ép lấy viên thổ quan, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử:

" Giết chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào còn đáng ở trong cõi đời? Thôi thì một thác cho rồi, Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông."

   Kiều phải tự tử vì đau khổ và ân hận. Kiều Nguyệt Nga phải nhảy xuống sông để ugửi chút tình" với trăng nước, để giữ tròn "tấm lòng ngay" với Lục Vân Tiên. Tiết hạnh của Kiều Nguyệt Nga vằng vặc như trăng sao. Hành động tự tử của Kiều Nguyệt Nga là để thủ tiết với Lục Vân Tiên, là để chống lại mọi âm mưu hèn hạ, xảo quyệt của tên Thái Sư, vị đại quan đầu triều.

   Đoạn thơ đã thể hiện bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Đình Chiểu. Sự kết hợp hài hòa giữa miêu tả, tự sự và độc thoại trữ tình đã tô đậm tính cách Kiều Nguyệt Nga: son sắt, thủy chung và tiết hạnh.

   Nhân vật Kiều Nguyệt Nga là một nhân vật lí tưởng của Nguyễn Đình Chiểu, đã nêu cao tấm gương tiết hạnh của một giai nhân:

"Gái thời tiết hạnh là câu trau mình."

   Phẩm giá của người con gái khuê các trong xã hội ngày xưa được thể hiện qua đoạn thơ này vẫn ít nhiều làm ta xúc động.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×