Tài nguyên thiên nhiên là những của cải có sẵn trong tự nhiên. Con người khai thác, sử dụng chúng cho lợi ích của bản thân và cộng đồng. Tuy nhiên nguồn tài nguyên thiên nhiên trong tự nhiên không phải là vô tận. Do vậy con người phải biết cách khai thác hợp lý để chúng phục vụ cho lợi ích của con người một cách hiệu quả.
Việt Nam được quốc tế công nhận là một trong những quốc gia có tính đa dạng sinh học cao nhất thế giới (xếp thứ 16/25 nước có mức độ đa dạng sinh học cao trên thế giới), với nhiều kiểu rừng, đầm lầy, sông suối, rặng san hô... tạo nên môi trường sống cho khoảng 10% tổng số loài chim và thú hoang dã trên thế giới. Nước ta còn là một trong 8 "trung tâm giống gốc" của nhiều loại cây trồng, vật nuôi, trong đó có hàng chục giống gia súc và gia cầm.
Hệ sinh thái của Việt Nam rất phong phú, bao gồm 11.458 loài động vật, hơn 21.000 loài thực vật và khoảng 3.000 loài vi sinh vật, trong đó có rất nhiều loài được sử dụng để cung cấp vật liệu di truyền.
Tuy vậy hiện nay tài nguyên thiên nhiên ở trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng đang bị đe dọa một cách nghiêm trọng. Nước ta rừng vàng, biển bạc, đất phì nhiêu nhưng chúng ta quá chủ quan và đã phí phạm tất cả những tài nguyên này. Chúng ta giết động vật, chăn nuôi không giới hạn, phá rừng, làm quá nhiều thủy điện, đánh bắt cá không hạn chế, ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng. Hậu quả những việc này chúng ta thấy ngay trước mặt, đó là cứ hàng năm chúng ta chịu thiên tai càng nhiều hơn và năng hơn. Thiệt hại do thiên tai gây ra hàng năm từ vài trăm đến vài ngàn tỉ đồng, thiệt hại nguồn ngân sách quốc gia. Nếu chúng ta biết hành động đúng thì nguồn ngân sách này có thể dùng cho phúc lợi, phát triển xã hội.
Đứng trước hiện trạng như vậy, nhà nước đã đề ra những giải pháp tức thời và lâu dài để có thể sử dụng, khai thác tài nguyên lâu dài và chủ động. Thứ nhất, đó là việc nâng cao trách nhiệm, hiệu quả khai thác, sử dụng tài nguyên, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu nhằm phục vụ phát triển bền vững. Trong quá trình sử dụng tài nguyên, không chỉ khai thác tiết kiệm, có hiệu quả các nguồn tài nguyên hiện có, mà cần coi trọng sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo, vật liệu mới; hạn chế tối đa, từng bước tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô và chỉ qua chế biến sơ, thúc đẩy chế biến sâu; sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả, giảm mức phát thải khí nhà kính. Đối với loại khoáng sản chiến lược đặc thù như than, dầu khí,... cần có chính sách cụ thể, cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu. Thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phục hồi môi trường sau khai thác khoáng sản; ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên do chủ quan con người, nhất là do các dự án phát triển kinh tế gây ra.
Thứ hai, đó là việc tăng cường quản lý tài nguyên. Tài nguyên là tài sản quốc gia, nguồn lực quan trọng của đất nước, phải được đánh giá đầy đủ, hạch toán trong nền kinh tế, và được quản lý một cách hiệu quả, bền vững, gắn với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, theo hướng bảo đảm tính tổng thể, liên ngành, liên vùng, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, trong đó lợi ích lâu dài là cơ bản, có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng giai đoạn.
Thứ ba, chúng ta cần chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Ở đây, trọng tâm là tiến hành đầu tư thích đáng cho các công trình trọng điểm quốc gia, các chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu. Chủ động xây dựng, triển khai và kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chương trình, kế hoạch ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai cho từng giai đoạn; nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo thiên tai, giám sát biến đổi khí hậu và tìm kiếm, cứu nạn, cứu hộ.
Và cuối cùng, đó là việc đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ môi trường. Trước tiên, hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường, tăng cường phòng, ngừa và kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn và từng bước khắc phục sự xuống cấp của môi trường tự nhiên. Hạn chế tiến tới khắc phục căn bản tình trạng ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp, khu đô thị, làng nghề, các lưu vực sông, không để phát sinh thêm những cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tiếp đó, để đẩy mạnh các hoạt động bảo vệ môi trường, cần bố trí hợp lý nguồn lực từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các công trình trọng điểm phục hồi môi trường dân sinh; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường, Toàn xã hội cần tăng cường phổ biến pháp luận và tuyên truyền ứng phó với thiên tai, biến đổi khi hậu.
Mỗi bước tiến nhỏ của từng người có thể tạo nên một sự thay đổi lớn, và chúng ta nên tự hỏi: "Hôm nay, tôi đã làm gì để bảo vệ môi trường?". Cả xã hội cùng đồng lòng thì tài nguyên thiên nhiên sẽ được phát triển dồi dào đúng cách, tạo nên nguồn sống và duy trì tương lai của con em chúng ta.