Khi nhận được lệnh trở ra miền bắc để cùng các họa sĩ ngoài Hà Nội chuẩn bị một cái triển lãm ở nước ngoài, thì tất cả tranh và ký họa của tôi vẽ trong mấy năm đã chất lên đầy một cái sạp làn giữa rừng căn cứ. Tôi lọc lấy chỉ độ một phần ba, vậy mà trên đường tôi đi ra, các đồng chí phụ trách các trạm giao liên trên từng chặng từng chặng một, phải thay phiên nhau cử một chiến sĩ của trạm đi theo "thổ" tranh cho tôi.
Hôm đó, đoàn chúng tôi đi qua một vùng trên đất bạn nổi tiếng nhiều biệt kích, lại rất đói, cũng là cái "rốn" của bệnh sốt rét. Chúng tôi được nghỉ lại một ngày để dưỡng sức, lán của nhóm khách đi đường chúng tôi dựng ngay trên đầu một cái lân khác của anh em chiến sĩ trong trạm. Buổi trưa, tôi đang ngồi vẫn vỡ ghi mấy cái dáng hòn đá, thân cây trước làn nghi của mình, thì trông thấy một người chiến sĩ nước da xam xăm và cập môi thâm sì đang leo mấy bậc dốc từ làn dưới đi lên. Người chiến sĩ đi thẳng đến trước mặt tôi ngồi xuống xem tôi vẽ. Rồi sau mấy câu chuyện làm quen, người chiến sĩ tha thiết thỉnh cầu tôi về cho anh một bức chân dung.
Tôi bỗng thấy tự ái. Tôi là một họa sĩ, chứ đâu phải một anh thợ vẽ truyền thần (1) Tôi từ chối khéo bằng cái mặt lạnh lùng. Người chiến sĩ tỏ vẻ phật ý, anh nhìn vào cái mặt lạnh lùng của tôi một thoáng rồi lẳng lặng quay lưng lại tôi, chậm rãi đi xuống dưới những cái bậc dốc.
Sáng hôm sau, chúng tôi lại lên đường. Thật một điều không ngờ, chẳng biết ai xui khiến thế nào mà chính người chiến sĩ trưa hôm qua lại "thổ" tranh cho tôi, chỉnh lại là anh chứ không phải một người nào khác. Thật là phiền cho tôi quả!
Vừa ra khỏi trạm, người dẫn đường đã báo cho khách biết trên dọc đường phải vượt thật nhanh khi leo một con dốc, sau đó là một con suối rất trồng trái, đã có một vài đoàn bị bọn biệt kích bắn lên hoặc máy bay thảm thỉnh phát hiện. Cái nghề đi đường rừng nó là như vậy, nói một chữ chung chung là đèo, dốc, suối... nhưng ở thực địa mặt mũi chúng chẳng chỗ nào giống chỗ nào cả. Đi đến quá trưa, chúng tôi gặp lưng lại, lội qua một quả núi đất không dốc lắm, mọc đầy có tranh đang trổ bông rất đẹp và lác đác có những hòn đá tai mèo. Những via đá tai mèo mọc lớm chỏm giữa cò tranh mỗi lúc một dày, và khi quả núi đồ sang sườn dốc bên kia thì chỉ có rặt đá tai mèo đen kịt, chúng tôi vừa thở dốc ra cả bằng mũi, bằng tai, năm ngón tay bịt chặt lấy chóm đầu từng hòn đá một mà lần xuống.
Ác thay cái bãi đá tai mèo nằm giữa khúc suối dưới chân núi. Có lẽ nó rộng đến năm trăm thước. Con suối chảy đến đấy thì phình rộng ra cháy lênh láng và réo lên ầm ầm trên một cái nền đá lởm chởm. Tuy đã được nghỉ một ngày nhưng sau khi leo qua được quả núi thì tôi đã thấm mệt. Tôi dò dẫm đi giữa khúc suối một cách vất và quả, cứ dần dần bị tụt lại sau. Rồi chân tôi tự nhiên bị sia xuống một hèm đá ngầm dưới nước. Tôi giờ hai tay lên trời chới với...
Người chiến sĩ "thổ" tranh cho tôi đang đi phía trước, cách một quãng khá xa, vội vã quay lộn lại. Nếu anh không đến kịp có lẽ là tôi bị dòng suối cuốn đi. Anh cới chiếc ba lô sau lưng cho tôi, khoác vào trước ngực mình. Anh đô lấy tôi, giúp tôi rút cái chân lên. Rồi dịu tôi đi. Tôi thở dốc. Mồ hôi vã ra như tắm. Hai mắt đổ đom đóm. "Đồng chỉ cố gắng lên - Người chiến sĩ vừa đi vừa động viên tôi - Tôi dìu đồng chỉ đi nhanh qua bên kia suối sẽ nghỉ. Nếu thẳng L.19 đến, chúng mình cứ ngồi xuống. Nó chẳng thấy gì cả đâu!".
Tôi không đủ sức theo kịp đoàn được nữa. Qua bên kia suối, người chiến sĩ lấy dầu con hổ bóp chân cho tôi, lúc ngồi nghỉ. Rồi bắt đầu từ đó, chỉ có hai người, anh và tôi, đi trong rừng. Tôi chỉ có thể đi người không. Người chiến sĩ vừa phải "thổ" đống tranh của tôi sau lưng (to và nặng gấp đôi một cái ba lô bình thường của khách đi đường) lại vừa phải mang thêm chiếc ba lô riêng của tôi trước ngực. Có lẽ tất cả đến sáu bày chục cân. Mà người chiến sĩ có khỏe mạnh gì cho cam!
Tôi không nói thì chắc các bạn cũng biết, ngay từ lúc người chiến sĩ đến gặp tôi để nhận mang cái bỏ tranh, tôi đã khó xử đến thế nào? Thế mà bây giờ, trên dọc đường, không những riêng cái đống tài sản của tôi mà cả chính tôi cũng đã trở thành một gánh nặng cho anh. Xưa nay tôi vẫn cho mình là một kẻ cũng biết tự trọng, và cũng biết suy nghĩ. Giá người chiến sĩ tỏ thái độ lạnh nhạt hoặc mặc xác tôi nằm lại một mình, tập tễnh đi một mình giữa rừng, thì tôi cũng thấy là cái lẽ phải. Xưa nay tôi vẫn quan niệm rằng: sống ở đời, cho Bạn đã gửi thế nào thì nhận thế ấy. Cái cách cư xử của người chiến sĩ đối với tôi chỉ có thể giải thích bằng lòng độ lượng. Độ lượng? Thế nhưng tôi nhiều tuổi hơn? Tôi lại là một họa sĩ có tên tuổi? Xưa nay tôi chỉ mới thấy lòng độ lượng của kẻ trên đối với người dưới. Bây giờ đây thì chính tôi, một kẻ bề trên, đang được một người dưới tỏ ra độ lượng với mình.
Tối ngày hôm đó, hai chúng tôi phải ngủ lại nửa đêm giữa rừng. Người chiến sĩ mắc võng cho tôi nằm rồi ôm súng ngồi gác bên cạnh. Nhưng làm sao mà ngủ được? Tôi đến ngồi bên anh, trên một phiến đá. Rừng đêm tối mò và đầy hăm dọa. "Tôi xin lỗi đồng chỉ về cái việc hôm qua... - tôi nói khẽ bên tai anh - Đến mai, thế nào tôi cũng phải vẽ đồng chỉ. Một bức, thật đẹp!".
(Trích truyện ngắn Bức tranh, Nguyễn Minh Châu, Văn học trong nhà trường, NXB Văn học, 2010, tr 40-43)
Bằng cách nhấp vào Đăng nhập, bạn đồng ý Chính sách bảo mật và Điều khoản sử dụng của chúng tôi. Nếu đây không phải máy tính của bạn, để đảm bảo an toàn, hãy sử dụng Cửa sổ riêng tư (Tab ẩn danh) để đăng nhập (New Private Window / New Incognito Window).
Đoạn trích từ truyện ngắn "Bức tranh" của Nguyễn Minh Châu kể về một người họa sĩ trong những ngày tháng kháng chiến. Qua đó, tác giả không chỉ khắc họa hình ảnh người chiến sĩ anh dũng, mà còn làm nổi bật những giá trị đạo đức, sự nhân văn và lòng độ lượng trong cuộc sống chiến đấu gian khổ.
1. Tình huống mâu thuẫn giữa họa sĩ và người chiến sĩ:
Ngay từ khi người chiến sĩ yêu cầu vẽ chân dung, người họa sĩ đã từ chối khéo vì tự ái và quan niệm nghề nghiệp. Anh ta cảm thấy mình là họa sĩ chuyên nghiệp, không phải là "thợ vẽ truyền thần". Tuy nhiên, khi gặp nguy hiểm giữa rừng, chính người chiến sĩ ấy đã giúp đỡ anh vượt qua thử thách, mang gánh nặng cho người họa sĩ, thể hiện lòng độ lượng và tình đồng đội vô điều kiện.
2. Sự thay đổi trong nhận thức của người họa sĩ:
Ban đầu, người họa sĩ chỉ coi người chiến sĩ như một "người dưới" mình, không đáng để nhận sự giúp đỡ. Nhưng qua những tình huống gian khó, anh đã dần nhận ra tình người ấm áp mà người chiến sĩ dành cho mình. Từ chỗ tự ái, anh bắt đầu cảm thấy xấu hổ và nhận ra giá trị của lòng độ lượng, bất kể người cho là ai.
3. Lòng độ lượng và sự chuyển biến trong mối quan hệ:
Sự kiện người chiến sĩ giúp đỡ và chia sẻ gánh nặng với người họa sĩ thể hiện một bài học sâu sắc về lòng độ lượng, về việc sẵn sàng giúp đỡ mà không phân biệt thân phận hay địa vị. Người chiến sĩ ấy, mặc dù có thể không bằng người họa sĩ về danh tiếng, nhưng anh lại thể hiện phẩm chất vượt trội về tình người, chính sự khiêm nhường của anh là yếu tố giúp họa sĩ thay đổi.
4. Bài học về sự khiêm nhường và lòng biết ơn:
Cuối đoạn trích, người họa sĩ đã nhận ra giá trị của lòng khiêm nhường và tình đồng đội chân thành. Anh không còn kiêu ngạo vì nghề nghiệp, mà thay vào đó là sự cảm kích đối với người chiến sĩ đã giúp mình trong hoàn cảnh hiểm nguy.
Kết luận:
Đoạn trích không chỉ là câu chuyện về sự giúp đỡ giữa một họa sĩ và một chiến sĩ, mà còn là bài học về lòng độ lượng, tình đồng đội, sự khiêm nhường và sự cảm kích trong cuộc sống. Nguyễn Minh Châu đã khéo léo xây dựng hình ảnh những người chiến sĩ không chỉ mạnh mẽ trên chiến trường mà còn là những con người đầy tình cảm, sẵn sàng hy sinh cho đồng đội và những người khác.
Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi
Vui | Buồn | Bình thường |