Bài tập  /  Bài đang cần trả lời

Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu

2 Xem trả lời
Hỏi chi tiết
14
1
0
Hồng Anh
hôm qua
+5đ tặng

Khi viết thơ, viết văn châm biếm, các tác giả thường xéo xắt những vấn đề trong xã hội và biến nó thành đề tài. Nhưng hiếm ai như Nguyễn Khuyến, ông viết thơ tự trào, là trào chính bản thân của mình! Người ta nói Nguyễn Khuyến là nhà thơ làng cảnh Việt Nam, với chùm thơ thu lãng mạn tinh tế. Nhưng chẳng ai biết, trong Tự trào, Nguyễn Khuyến lại trở thành một vị quan bất tài tự trào phúng chính bản thân mình!

Tự trào được viết trong khi Nguyễn Khuyến cáo lão hồi hương, khi đất nước bị giặc xâm lăng nhưng ông chỉ có thể đứng nhìn. Là người đề danh bảng vàng, được ca tụng học rộng tài cao nhưng lúc này, ông cũng chẳng biết làm gì. Hết lời khuyên can nhưng không được, ông chán nản bỏ về quê vì không muốn chứng kiến cảnh xót thương. Nhưng cũng chính vì vậy, ông coi thường bản thân và viết nên bài thơ Tự trào trong khi đang ở quê. Không chỉ vậy, bài thơ còn là lời châm biếm xã hội lúc bấy giờ, những kẻ quan cao chức lớn để dân thường chịu khổ vì giặc.

Trong hai câu thơ đầu, Nguyễn Khuyến đã tự vẽ lên dáng hình của mình khi ấy:

Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.

Dường như lúc ấy, vị quan cũ trở về nhưng vẫn không cam lòng, làm bạn với rượu và ngâm thơ. Vậy nên giọng điệu bài thơ mới gàn dở như một ông lão đương lúc say mèm. Ông đã tự nói về mình: không giàu, không nghèo, không gầy, không béo. Dường như đó là con người bình thường đến không thể bình thường hơn, không có gì nổi bật. Trước đây, trong tay ông có chức quan, là người được ca tụng tài hoa. Nhưng khi về quê, khi thấy sự bất lực của mình, niềm tin như đã phai nhòa trong ông, biến vị tuấn tài đó trở nên bình thường như bao người khác!

Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.

Sự châm biếm bắt đầu rõ ràng hơn từ hai câu thực. Nguyễn Khuyến tự cười mình bằng hai chữ “chạy làng”. Ông ví việc mình cáo lão về quê chính là chạy trốn. Mà cũng đúng thật! Ông chạy khỏi hiện thực đau thương, chạy khỏi chốn cung đình cao rộng nhưng tù túng, trở về với thiên nhiên và tự do như ông hằng mong ước. Nhưng khi ấy, hành động này trong mắt chính nhà thơ lại đáng bị lên án. Ông như kẻ vô tâm chỉ biết từ xa đừng nhìn thế cục rối ren của đất nước. Nhưng hỡi ôi! Cái đau lòng và khiến Nguyễn Khuyến đau xót nhất lại nằm trong chính câu thơ, đó là cảnh “không còn nước”. Ván cờ dang dở như cuộc đời, còn chưa kịp cống hiến, quân cờ chưa kịp đi thì đã mất nước. Mà khi ấy, mất nước tức là hết, trong tay chẳng còn lại gì. Thế nên trước hành động chạy trốn của mình, ông lại càng thêm mỉa mai, giọng điệu càng thêm châm biếm!

Nhưng một vị quan nhỏ đã vậy, mà những kẻ quyền cao hơn lại có thái độ càng thêm bạc bẽo:

Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.

Nguyễn Khuyến đã khuyên can, đã gàn “bát sách” nhưng chẳng được, tiếng cười dân trở nên chua xót, cười đời, cười mình, cười thế sự vô thường. Khi trở về, ông say trong men rượu như để quên đi nỗi xót xa bên ngoài, lấy rượu để giải sầu, mượn rượu để nói ra nỗi lòng. Không chỉ châm biếm chính bản thân, Nguyễn Khuyến còn châm biếm cả một thế hệ học sĩ lúc bấy giờ. Những người có ăn có học, được bổng lộc của dân đen nhưng lại làm ngơ chính sự, chịu nhục để giặc đọa đày. Vì nỗi đó, ông mới thân lên câu kết:

Nghĩ mình lại ngán cho mình nhỉ,
Mà cũng bia xanh, cũng bảng vàng.

Là một vị danh sĩ một thời, ấy vậy mà ông không làm gì được nên mới “ngán cho mình”. Tự trách mình kém cỏi, không xứng nhưng cả các bậc tiến sĩ hồi ấy cũng thật đang cười. Nào là bia xanh, nào là bảng vàng, nhưng những lúc thực sự cần lại không thầy. Như Nguyễn Khuyến, ông chọn về quê, tránh rời thế sự trên đời. Bởi bao lần ngăn vua không được, ông mới thực sự hiểu rằng “Vua chèo còn chẳng ra gì/ Quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề”!

Bài thơ thể hiện sự tự nhận thức của Nguyễn Khuyến về tài năng, về vận mệnh của mình và một thời đại, một thế hệ. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc nhưng lại rất tinh tế, sâu sắc đã châm biếm từ bản thân đến thế hệ ngày ấy, khiến cho người đọc ngỡ ngàng. Vậy nên từ đây say trong men rượu, ông đồng ý bỏ hết về với thiên nhiên và tận hưởng những ngày tháng an nhàn, dù tâm vẫn lo lắng cho nghiệp nước, sự đời!

Mở khóa để xem toàn bộ nội dung trả lời

(?)
Bạn đã đạt đến giới hạn của mình. Bằng cách Đăng ký tài khoản, bạn có thể xem toàn bộ nội dung trả lời
Cải thiện điểm số của bạn bằng cách đăng ký tài khoản Lazi.
Xem toàn bộ các câu trả lời, chat trực tiếp 1:1 với đội ngũ Gia sư Lazi bằng cách Đăng nhập tài khoản ngay bây giờ
Tôi đã có tài khoản? Đăng nhập
1
0
bảo hân
hôm qua
+4đ tặng

Câu 1: Nhân vật trữ tình trong bài thơ là tác giả Nguyễn Khuyến, với những cảm xúc, suy ngẫm của ông về bản thân trong hoàn cảnh khi đã từ quan về ở ẩn.

Câu 2: Phép đối trong bài thơ xuất hiện ở các cặp câu sau:

  • "Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang. / Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng."
  • "Cờ đương dỡ cuộc không còn nước, / Bạc chửa thâu canh đã chạy làng."

Các cặp câu này thể hiện sự đối lập giữa các trạng thái, điều kiện của tác giả, qua đó làm nổi bật sự mỉa mai về tình cảnh của chính mình.

Câu 3: "Tự trào" có nghĩa là tự châm biếm, tự mỉa mai chính bản thân mình. Tác giả tự trào về cuộc đời, con người của mình, về những điều không như mong muốn, qua đó bộc lộ sự bất mãn, chán chường với xã hội và bản thân.

Câu 4: Qua bài thơ, vẻ đẹp tâm hồn của Nguyễn Khuyến thể hiện qua sự tự nhận thức về những hạn chế, khuyết điểm của bản thân một cách khiêm nhường. Ông không tự cao, tự mãn mà tự trào, tự cười chính mình. Điều này thể hiện sự thanh thản, trí tuệ và liêm sĩ trong tâm hồn ông.

Câu 5: Em đồng tình với ý kiến trên vì tiếng cười của Nguyễn Khuyến không phải là sự chê bai, hạ thấp bản thân, mà là sự nhận thức sâu sắc về mình trong một xã hội đầy bất công. Tiếng cười ấy chứa đựng sự tự trách, tự nhận thức về mình, một sự thấm thía về cái gọi là "danh lợi" và "sự nghiệp". Đồng thời, tiếng cười ấy cũng thấm đẫm sự buồn bã, thấm đẫm nước mắt vì không thể làm được điều mình mong muốn.

II. PHẦN VIẾT

Câu 1: (Viết đoạn văn nghị luận về một thói hư tật xấu trong bài thơ)

Trong bài thơ "Tự trào," Nguyễn Khuyến không trực tiếp chỉ ra thói hư tật xấu nào, nhưng qua việc tự trào, ông phản ánh một tật xấu trong xã hội xưa – đó là chạy theo danh lợi, ham muốn quyền lực. Từ hình ảnh "cờ đương dỡ cuộc không còn nước" và "bạc chửa thâu canh đã chạy làng," tác giả gián tiếp chỉ ra rằng con người quá chú trọng vào danh vọng, mà khi không đạt được, họ lại vội vàng từ bỏ, rời bỏ cuộc sống, thể hiện sự hèn nhát, thiếu kiên định. Đây là một thói hư tật xấu, đặc biệt trong một xã hội luôn coi trọng sự nghiệp và danh tiếng. Qua đó, bài thơ của Nguyễn Khuyến đã nhắc nhở chúng ta về giá trị của sự chân thực, kiên định và liêm sĩ trong cuộc sống, không nên chạy theo những danh lợi phù phiếm mà bỏ qua những giá trị thực sự.

Câu 2: (Viết bài văn nghị phân tích bài thơ “Tự trào”)

Bài thơ “Tự trào” của Nguyễn Khuyến là một tác phẩm nổi bật thể hiện sự tự trào, tự phê phán của tác giả về bản thân, đồng thời phản ánh sự chán chường đối với xã hội. Trong bài thơ, nhân vật trữ tình không tự ca ngợi mình mà tự mỉa mai những khuyết điểm, những điểm yếu của bản thân. Từ hình ảnh "cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang," Nguyễn Khuyến đã bộc lộ sự khiêm nhường, không hề có ý tự mãn về những gì mình có. Tác giả chỉ ra rằng mình không phải là người tài giỏi, không phải là người thành công trong sự nghiệp, dù đã từng đi qua con đường quan lại. Hình ảnh "cờ đương dỡ cuộc không còn nước" cũng phản ánh sự thất bại, bế tắc của một người đã bỏ cuộc, không còn tham vọng.

Tuy nhiên, qua đó, Nguyễn Khuyến không chỉ tự trào mà còn thể hiện sự thanh thản trong tâm hồn, không còn vướng bận với những danh lợi, chỉ muốn tìm kiếm sự bình yên, thoải mái. Tác giả mỉa mai nhưng cũng rất tự nhận thức về bản thân. Đó là vẻ đẹp của sự trí tuệ và liêm sĩ.

Tiếng cười trong bài thơ chính là sự tự giác của người trí thức không muốn bám víu vào những hào quang, danh vọng mà xã hội mang lại. Đây là một bài học quý giá cho mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, về giá trị đích thực trong cuộc sống: không phải là tiền tài, danh vọng, mà là sự bình an trong tâm hồn và liêm sĩ trong mỗi con người.

Bài thơ “Tự trào” là một tác phẩm sâu sắc thể hiện tư tưởng và cái nhìn của Nguyễn Khuyến về con người và xã hội. Thông qua bài thơ, chúng ta thấy được một tấm gương khiêm nhường, trí tuệ và không bị cuốn vào những cám dỗ của thế gian.

Bạn hỏi - Lazi trả lời

Bạn muốn biết điều gì?

GỬI CÂU HỎI
Học tập không giới hạn cùng học sinh cả nước và AI, sôi động, tích cực, trải nghiệm

Hôm nay bạn thế nào? Hãy nhấp vào một lựa chọn, nếu may mắn bạn sẽ được tặng 50.000 xu từ Lazi

Vui Buồn Bình thường
×
Trợ lý ảo Trợ lý ảo
×
Đấu trường tri thức | Lazi Quiz Challenge +500k
Gửi câu hỏi
×