a) Năm 2021 so với năm 2010, khí tự nhiên giảm nhanh hơn dầu thô:
Dầu thô giảm từ 15,0 triệu tấn (2010) xuống 10,9 triệu tấn (2021), giảm khoảng 27,3%.
Khí tự nhiên giảm từ 9,4 tỷ m³ (2010) xuống 7,4 tỷ m³ (2021), giảm khoảng 21,3%.
Như vậy, dầu thô giảm nhanh hơn so với khí tự nhiên, nhận định a) là sai.
b) Dầu thô được khai thác chủ yếu ở trong nước: Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy sản lượng khai thác dầu thô trong nước luôn chiếm phần lớn so với sản lượng khai thác ở nước ngoài. Ví dụ, năm 2021, khai thác trong nước là 9,1 triệu tấn, trong khi ở nước ngoài chỉ là 1,8 triệu tấn. Nhận định b) là đúng.
c) Sản lượng dầu thô, khí tự nhiên giảm do tài nguyên dầu khí ngày càng cạn kiệt: Đây là một trong những nguyên nhân chính. Các mỏ dầu khí đang dần cạn kiệt, việc phát hiện các mỏ mới gặp nhiều khó khăn và chi phí khai thác ngày càng tăng. Ngoài ra, còn có các yếu tố khác như:
Công nghệ khai thác: Công nghệ khai thác chưa được đổi mới kịp thời cũng ảnh hưởng đến sản lượng.
Đầu tư: Việc đầu tư vào thăm dò và khai thác dầu khí chưa được chú trọng đúng mức.
Biến động giá dầu thế giới: Giá dầu thế giới biến động cũng ảnh hưởng đến hoạt động khai thác.
Nhận định c) là đúng, nhưng cần hiểu là có nhiều yếu tố tác động chứ không chỉ riêng việc cạn kiệt tài nguyên.
d) Sản lượng khai thác dầu thô ở nước ngoài liên tục tăng: Nhìn vào bảng số liệu, sản lượng khai thác dầu thô ở nước ngoài tăng từ 0,3 triệu tấn (2010) lên 1,9 triệu tấn (2015), nhưng sau đó giữ ở mức 1,8 triệu tấn cho đến năm 2021. Như vậy, sản lượng khai thác ở nước ngoài không liên tục tăng, nhận định d) là sai.